NGƯỜI PHỤ NỮ HỌ TRƯƠNG VÀ NGÔI MỘ CHUNG TRÊN ĐỒI TỪ HIẾU - Lê Thí

Lăng mộ chung của Thái Phiên và Trần Cao Vân.
Ảnh từ art2all.net

Lê Thí
NGƯỜI PHỤ NỮ HỌ TRƯƠNG 
VÀ NGÔI MỘ CHUNG TRÊN ĐỒI TỪ HIẾU

Hai nhà cách mạng người Quảng tuy không sinh cùng năm nhưng lại cùng lý tưởng, cùng hy sinh một ngày cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và cùng được an nghỉ với nhau trong một ngôi mộ chung. Đó là Thái Phiên và Trần Cao Vân.

Trong cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quang phục hội (thường được gọi là cuộc khởi nghĩa của vua Duy Tân) năm 1916, Trần Cao Vân và Thái Phiên là nhân vật chủ chốt, có vai trò quan trọng hàng đầu. Điều này được thể hiện trong tờ chiếu khởi nghĩa của vua Duy Tân đề ngày 27 tháng 3 năm Duy Tân thứ mười (29-4-1916) hiện còn lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Hải ngoại (The Archives Nationales d’Outre-Mer, viết tắt là ANOM) của Pháp ở Aix-en-Provence và Văn khố Toàn quyền Đông Dương. Tờ chiếu này có sao gửi cho 4 người gồm: Trần Cao Vân, Thái Phiên, Lâm Nhĩ, Nguyễn Quang Siêu.
Nguyên văn trong tờ chiếu (được dịch ra quốc ngữ):
“... Trong tất cả mọi việc, Trẫm trao quyền hành động cho Hồng Việt, Hoàng Anh, Thanh Minh và Lam Giang, với sự hợp tác của những người có tấm lòng cao cả trong ba kỳ của Quốc gia Annam, dù họ là quan chức, viên chức, đương nhiệm hay không đương nhiệm, các nho sĩ, thân hào, người bình dân, và tất cả đều vì mục đích theo đuổi là đem lại một kỷ nguyên Văn Minh.
Ngay sau khi sự nghiệp hoàn thành, tất cả những ai có cống hiến sẽ được nhận những phần thưởng xứng đáng và sẽ trở thành bất tử qua thời gian.
Bất cứ ai cản trở sự nghiệp này sẽ bị truy tố và trừng phạt không tha thứ.
Nay kính báo.
Chuyển để thi hành:
-  đến đạo nhơn Trần... (tức Trần Cao Vân - LT), tự Hồng Việt - chức vụ và cấp bậc: Cố vấn cao cấp, Tể tướng để phục hưng, phòng vệ đoàn tùy tùng hoàng gia, phụ trách các vấn đề quân sự.
- đến đạo nhơn Thái... (tức Thái Phiên - LT), tự Hoàng Anh, Phó cố vấn cao cấp, Tổng đốc Hoàng Thành, phụ trách các vấn đề tài chính và kinh tế”.
- đến…”
Cuộc khởi nghĩa được dự định tổ chức vào đúng 1 giờ sáng ngày 3-5-1916.  Trần Cao Vân và Thái Phiên phân nhiệm cho các nhân vật, chiếm các tỉnh, còn hai ông điều khiển việc chiếm kinh đô Huế, rước vua Duy Tân ra khỏi Đại Nội, đi vào phía Nam chờ bình định xong sẽ phò nhà vua trở lại ngôi.
Đại sự bị bại lộ, cuộc khởi nghĩa thất bại. Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu bị bắt tại chùa  Ngũ Phong (gần An Cựu, thành phố Huế).
Thái Phiên và Trần Cao Vân đã bị Viện Cơ mật kết án: “Thủy nhi Hậu hồ thùy điếu, thiện tả chiếu văn, nhi Thương Bạc đình thuyền, yêu nghinh thánh giá, Hà Trung mạch phạn,Ngũ Lĩnh kê thang, thừa dư chí thử phong trần, môi nghiệt giai do thử bối” (Tạm dịch: “Ban đầu buông câu ở Hậu Hồ, tự thảo chiếu văn, kế đến neo thuyền ở bến Thương Bạc, chờ rước nhà vua, mời vua dùng cơm lạt ở làng Hà Trung, ăn cháo gà ở núi Ngũ Phong, mình rồng phải chịu dãi dầu sương gió, tội lỗi này đều do bọn kia tạo ra) và ra lệnh xử chém.
Chiều 17-5-1916 Thái Phiên cùng Trần Cao Vân, Nguyễn Quang Siêu và Tôn Thất Đề ra trường chém ở An Hòa đền nợ nước.
Về cái chết của hai ông, các tài liệu đều cho là diễn ra vào ngày 17-5-1916.  Nhưng gần đây nhà nghiên cứu Nguyễn Trương Đàn trên tạp chí Xưa và Nay và báo Đà Nẵng Cuối tuần lại dẫn các tờ báo Trung Bắc Tân Văn (số ngày 27-5-1916), Lục Tỉnh Tân Văn, Nông Cổ Mín Đàm (8-6-1916) lại cho rằng cuộc xử chém diễn ra vào lúc 16 giờ 30 chiều 16-5-1916. Đây là mẩu tin ngắn trên báo Trung Bắc Tân Văn: “Hồi 4 giờ rưỡi chiều 16 Mai, bốn người mưu việc khởi loạn Trung Kỳ, đã phải xử tử tại đường Quảng Trị, cách la-ga An Hòa 100 thước. Một người tên là Trần Cao Vân và một người là Thái Phiên, cùng ở Quảng Nam cả...”.
Cho đến nay vẫn không biết vì sao có sự vênh lệch này!
Tương truyền, tại pháp trường hôm ấy, khi đầu Thái Phiên rơi xuống đất, một thiếu phụ mặc đồ tang đã chạy ngay đến, ôm chặt thi thể người chí sĩ vào lòng, khóc thương thảm thiết. Khi bị lôi ra, thiếu phụ đã xõa tung mái tóc đen thấm lấy dòng máu tươi từ cơ thể người chí sĩ. Thiếu phụ ấy là bà Trần Thị Băng, thiếp của Thái Phiên. Bà đã giữ máu ấy trên đầu, không chịu tắm gội. Mấy tháng sau bà mang bệnh nhưng kiên quyết không uống thuốc để chết theo chồng.
Cái chết của Thái Phiên, Trần Cao Vân và các chí sĩ của cuộc khởi nghĩa đã gây xúc động lớn. Huỳnh Thúc Kháng lúc này đang thụ án ở Côn Đảo nghe tin cái chết oai hùng này đã có thơ tặng Thái Phiên (được dịch ra quốc ngữ): Âu học không đem rút của người,/ Chả thành đời sống vứt như chơi./ Kìa phường học mới đông như kiến,/ Đêm hỏi lòng chăng có hổ ngươi? (Huỳnh Thúc Kháng, Thi Tù Tùng Thoại, Nam Cường, 1951).
Người Pháp và Nam triều đã cho vùi xác của 4 vị ngay tại pháp trường với hy vọng sẽ tóm thêm được những đồng chí của các vị khi họ đến viếng.
Năm 1922, con trai của Trần Cao Vân đã làm đơn gửi khắp nơi ở Huế để xin được đưa hài cốt của cha về cải táng ở quê nhà nhưng tất cả đều bị từ chối.
Tại bãi chém An Hòa, hai ngôi mộ lâu ngày không được chăm sóc có khả năng bị mất dấu. Nên năm 1925, một đồng chí của Trần Cao Vân và Thái Phiên là bà Trương Thị Dương đã lén đưa thi hài hai ông đem chôn trong một ngôi mộ chung tại đồi Từ Hiếu nay thuộc xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Ngôi mộ chung này đã được công nhận là Di tích văn hóa lịch sử cấp quốc gia vào ngày 14-7-1990. Về việc hai chí sĩ được cải táng chung trong một ngôi mộ được bà Dương thuật lại như sau: “Ngày 5 tháng 5 năm Ất Sửu (1925), tôi và đứa cháu là Đặng Khánh Di vừa đi đến cầu Vân Căn, bỗng một chiếc guốc bị gãy đôi. Tôi nghi có điềm chẳng lành. Đến chùa Đại Trung, gặp ông Nguyễn Hữu Cảnh (trị sự chùa), ông giục tôi đi, không nên do dự.
3 giờ sáng ngày hôm sau (mồng 6), chúng tôi đi thẳng tới chỗ di hài hai cụ. Người giữ nấm mộ ấy là Thủ Tỵ), y có người con bị bệnh phong, làm chòi ở khít bên mộ để giữ, ai đến gần, nó bắt.
Tới nơi, tôi cho thằng phong ấy 3 đồng, trả cho ông Thủ Tỵ 6 đồng, và thuê 5 người nữa với ông Thủ Tỵ 24 đồng, xin dời hộ, vì tôi nói là mộ của ông chú tôi.
Hốt cốt lên, tôi lấy giấy tinh (tức giấy trong có viết chữ Hán) bỏ vào hai thúng đầy, rồi qua cửa Chính Tây ngồi đợi. Khi hốt xong, bọn làm thuê thấy không có mặt tôi, hỏi, thì ông Thủ Tỵ nói tôi đi mượn tiền, và có nhờ gánh cốt qua bên ấy (cửa Chính Tây) mới trả tiền đủ (đã trả trước 12 đồng). Bọn họ dùng dằng một lúc rồi cũng phải gánh đi.
Đến cửa Chính Tây, tôi trả tiền đủ, liền thuê hai chiếc xe kéo: một chiếc tôi chở cốt, một chiếc cho người cháu tôi và Nguyễn Hữu Cảnh ngồi. Xe đi thẳng tới tháp Hòa thượng Kiết Mao gần chùa Châu Lâm, tôi đặt cốt lên bàn, thắp hương ngồi giữ. Đến sáng ngày, tôi thuê Trùm Ngữ mua hai tiểu sành cùng giấy tờ, lại thuê gánh nước tới, tôi rửa sạch cốt hai cụ, liệm vào tiểu sành.
Hai di cốt này trải qua trên 9 năm, đến nay vẫn còn nguyên vẹn. Cốt cụ Thái vàng rực, bỏ vào tiểu sành có dư, phải lấy bớt giấy lót ra. Cụ Thái lúc lâm hình mặc áo lương, máu dính sát vào cốt, gỡ ra nghe rạt rạt. Cụ Trần bận áo vải dù, cũng dính sát vào cốt. Tôi thuê người đào huyệt và đắp nấm hết 4 đồng. Ai dè chôn được 11 ngày, Thừa Phủ hay tin, cho lính đến canh gác. Nhờ có người báo tin về ông Nguyễn Hữu Cảnh, ông Cảnh báo về tôi, tôi thừa đêm khuya thuê 4 người, mỗi người 4 cắc hết 1 đồng sáu, đem chôn nơi khác, hiện nay ở gần chùa Châu Lâm, nhưng chôn thành một nấm.
Nơi đã dời đi, tôi vẫn cho đắp lại thành nấm tử tế, rào giậu kỹ càng, làm như không ai đụng chạm đến. Thế là nơi ấy vẫn có hai cái nấm mồ, nhưng không có cốt người!”. (Dẫn lại Nguyễn Trương Đàn, trong tạp chí Hồn Việt)
Bí mật này được bà Dương giữ kín cho mãi đến năm 1956, khi thấy không còn nguy hiểm nên đã tiết lộ với con cháu và ông Võ Như Nguyện là con trai của nhà cách mạng Võ Bá Hạp, vốn là đồng chí của bà. Ông Nguyện lúc này là Dân biểu Quốc hội của Việt Nam Cộng hòa. Sau đó bà đã khắc tấm bia bằng chữ Hán “Trần Cao Quý Công-Thái Duy Quý Công” và dựng trước ngôi mộ chung của hai ông. Tấm bia này hiện nay vẫn còn.
Chính vì ngôi mộ chung nên cho đến nay hai ông vẫn chưa thể về lại quê nhà.Có khi đó là ý nguyện của hai ông, không muốn xa nhau và … xa Huế!.
Bà Trương Thị Dương có biệt hiệu là Quảng Hà, sinh năm 1881 tại làng Tân Điền, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị là người được Phan Bội Châu kết nạp vào phong trào Đông Du năm 1903, phụ trách việc vận động tài chánh cho du học sinh Việt Nam tại Nhật Bản. Năm 1914, thông qua bà Mai Thị Vàng (con gái Mai Khắc Đôn và là vợ vua Duy Tân) bà được kết nạp vào tổ chức Việt Nam Quang phục hội, được vua Duy Tân giao nhiệm vụ làm liên lạc với các nhà cách mạng. Bà đã từng được nhà vua sai vào tận làng Tư Phú nay là xã Điện Phong, huyện Điện Bàn để trao nhiệm vụ cho Trần Cao Vân. Sau khi cuộc khởi nghĩa thất bại bà đã về ẩn mình ở xóm Nhà Trưa, nay là thôn Tân Trưng, xã Hải Chánh, huyện Hải Lăng, Quảng Trị. Thời gian này bà luôn đau đáu một ý nguyện là tìm cách đưa hài cốt hai đồng chí của mình đến chôn ở một nơi đường hoàng hơn để sau này có điều kiện sẽ đưa về an nghỉ ở quê nhà, để con cháu được hương khói. Bà đã nhiều lần đến thăm mộ nhất là sau lần cải táng năm 1925. Bà mất ngày 24 tháng 7 năm 1957, hưởng thọ 76 tuổi . Đám tang của bà được tổ chức trọng thể có sự tham gia của nhiều quan chức, đặc biệt là có cả mẹ của vua Duy Tân. Hiện nay mộ bà vẫn còn ở xã Hải Chánh huyện Hải Lăng.
Ở Đà Nẵng, trên đường Trần Cao Vân có ngôi trường phổ thông trung học lớn mang tên Thái Phiên, như một gợi nhớ về hai nhà cách mạng tuy sinh không cùng năm nhưng lại cùng lý tưởng, cùng hy sinh một ngày cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và cùng được an nghỉ với nhau chung trong một ngôi mộ. Có lẽ ở Tam Kỳ, Đà Nẵng… nên có một con đường mang tên Trương Thị Dương, để thể hiện sự tri ân của người dân xứ Quảng cho tấm lòng mà bà đã dành cho hai chí sĩ cách mạng kiệt xuất của quê hương mình.



Hậu duệ của các vị Thái Phiên,Trần Cao Vân, Trương Thị Dương trước ngôi mộ chung của Thái Phiên và Trần Cao Vân tại Huế.

                                                       

Tác giả LÊ THÍ
cựu giáo viên trường THPT Trần Phú, 
Đà Nẵng


Share on Google Plus

About Unknown

Bài viết này được chia sẻ bởi Unknown.
    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Đăng nhận xét