Không nói ra ai cũng biết rằng giải thưởng Nobel được xem là một đỉnh điểm của thành tựu trong khoa học. Câu hỏi đặt ra là sau khi được trao giải Nobel, nhà khoa học có gia tăng cường độ ảnh hưởng của mình hay không? Kết quả của một vài phân tích gần đây có thể làm cho chúng ta ngạc nhiên …
Trong khoa học, mức độ ảnh hưởng được đo lường bằng tần số trích dẫn (citation). Một công trình sau khi công bố được nhiều trích dẫn là một dấu hiệu cho thấy công trình có tác động đến chuyên ngành. Nhưng tần số trích dẫn phụ thuộc vào thời gian sau khi công bố và ngành khoa học. Những ngành khoa học thực nghiệm như y khoa, hoá học, vật lí, v.v. thường có tần số trích dẫn cao hơn những ngành lí thuyết và xã hội học, kể cả kinh tế học.
Tần số trích dẫn cũng là một tín hiệu về triển vọng giải Nobel. Một phân tích của nhóm ISI (Viện thông tin khoa học) năm 1967 cho thấy trong số 50 người có tần số trích dẫn cao nhất, 6 người đã đã được trao giải Nobel, và 8 người khác được trao giải Nobel sau đó. Riêng ngành kinh tế học, trong số 50 tác giả được trích dẫn nhiều nhất trong thời gian 1966-1986, 15 người đã được trao giải Nobel, và 2 người được trao giải trong thời gian 1987-1991.
Một câu hỏi ngược lại: nếu nhà khoa học đã được trao giải Nobel thì tần số trích dẫn của họ có tăng hay không? Bảng số liệu sau đây trình bày tần số trích dẫn mỗi năm cho các nhà khoa học được trao giải Nobel, tính 4 năm trước và 5 năm sau khi được trao giải.
Bảng 1: Tần số trích dẫn bình quân (tính trên mỗi tác giả) mỗi năm của các nhà khoa học đoạt giải Nobel
Năm | Hoá học | Kinh tế học | Vật lí | Y học |
-4 | 10975 | 1604 | 5431 | 11517 |
-3 | 12583 | 1703 | 6382 | 11534 |
-2 | 12412 | 1896 | 7239 | 11247 |
-1 | 13685 | 1835 | 7650 | 12378 |
Năm trao giải | 14003 | 2102 | 8368 | 12997 |
+1 | 16146 | 2607 | 8884 | 13125 |
+2 | 15998 | 2872 | 8274 | 12768 |
+3 | 16070 | 3325 | 8715 | 13352 |
+4 | 16906 | 3555 | 8870 | 13492 |
+5 | 17417 | 4031 | 8759 | 12955 |
% tăng trưởng | 31% | 76% | 30% | 13% |
Chú thích: năm -4 có nghĩa là 4 năm trước khi được trao giải Nobel; tương tự -3 có nghĩa là 3 năm trước khi được trao giải. Năm +4 có nghĩa là 4 năm sau khi được trao giải. “% tăng trưởng” tính bằng cách lấy tổng số trích dẫn 4 năm sau khi trao giải chia cho tổng số trích dẫn 4 năm trước khi trao giải.
Tính chung, tần số trích dẫn có phần tăng sau khi các nhà khoa học được trao giải. Nhưng tỉ lệ tăng trưởng không đồng đều giữa các ngành. Các nhà kinh tế học có tần số trích dẫn tăng 76% sau khi đoạt giải Nobel. Tỉ lệ này cho các nhà hoá học là 31%, tương đương với các nhà vật lí. Riêng ngành y, tỉ lệ tăng trưởng hầu như không đáng kể (chỉ 13%). Tuy nhiên, nếu điều chỉnh cho số công trình công bố sau khi đoạt giải Nobel, tôi đoán rằng tần số trích dẫn trung bình tăng không đáng kể. Do đó, có thể nói rằng giải Nobel không làm thay đổi cường độ ảnh hưởng đáng kể.
Những dữ liệu này không làm các nhà khoa học Nobel ngạc nhiên. Giáo sư Kurt Wuthrich (Giải Nobel hoá học 2002) cho biết tần số trích dẫn của những công trình của ông tăng một thời gian sau khi ông được trao giải, nhưng sau đó thì quay về lúc trước khi được trao giải. Ông còn cho biết mỗi lần bài báo của ông nộp cho một tập san nào thì bị bình duyệt (peer review) rất cẩn thận, có khi bản bình duyệt còn dài hơn cả bài báo! Còn Giáo sư Peter Doherty có lần giảng ở Viện Garvan cho biết sau khi được trao giải Nobel y học, sự nghiệp ông chẳng có thay đổi gì, ông vẫn xin tài trợ (và vẫn bị từ chối), vẫn công bố quốc tế, nhưng ông nói đùa là còn thêm một việc: đi nói chuyện trước công chúng trên khắp thế giới. Nghe nói ông được mời nói chuyện nhiều đến nổi ông viết một cuốn sách nhỏ như là những lời khuyên cho các nhà khoa học trẻ làm sao có thể đoạt giải Nobel (“The Beginner's Guide to Winning the Nobel Prize: Advice for Young Scientists”). Tôi chưa đọc cuốn này, nhưng có vài người bạn đọc và khen lắm. Một số bài điểm sách cũng khen cuốn sách nhỏ này. Có lẽ một phần là do tác giả là nhà khoa học đẳng cấp Nobel :-).
N.V.T
Tham khảo:
Garfield E, Welljams-Dorof A. Of Nobel class: a citation perspective on high impact research authors. Theoretical Medicine 1992; 13:118-126.
Garfield E, Welljams-Dorof A. Of Nobel class: a citation perspective on high impact research authors. Theoretical Medicine 1992; 13:128-136.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét