Xin giới thiệu bài viết “Khoa học, Đại học, và Lí tưởng tuổi trẻ” của anh Ts Nguyễn Xuân Xanh. Thật ra, đây là một bài nói chuyện trước giảng viên và sinh viên ĐH Hoa Sen nhân ngày khai giảng niên học mới (5/10/2012) vừa qua. Một trong những câu hỏi anh Xanh dằn dặt suy nghĩ là tại sao phương Tây phát triển khoa học và công nghệ (KHCN) tốt hơn phương Đông (Á châu và Trung Đông), trong khi phương Đông đã từng đi trước phương Tây về KHCN. Cố nhiên, có nhiều cách trả lời, tuỳ theo góc độ nhìn và quan điểm cá nhân. Đọc bài này các bạn sẽ tự tìm cho mình một vài câu trả lời. Tôi thì dằn dặt với câu hỏi tại sao KHCN nước ta không phát triển bằng mấy nước trong vùng, dù trước 1975 họ chẳng hơn, có thể còn kém hơn, chúng ta. Nghĩ đi nghĩ lại tôi thấy con người và văn hoá là yếu tố quan trọng. Có lẽ quan điểm này chịu ảnh hưởng từ “Sự điêu tàn của văn hoá” của La Thành mấy năm trước đây. N.V.T.
Nội dung:
Mở đầu/ Khoa học/ Lịch sử khoa học/ Đại học/ Đại học Humboldt/ Ai 'trị vì' thế giới?/ Khoa học vào phương Đông/ Lý tưởng tuổi trẻ.
Mở đầu
Các bạn sinh viên, các giảng viên và anh chị quý mến,
Tôi xin được bắt đầu buổi nói chuyện hôm nay với những vần thơ như thế của nhà thơ Ba tư Rumi thế kỷ thứ 13, người có ảnh hưởng lớn đến văn học Hồi giáo, những vần thơ như muốn nhắc nhở và đánh thức lại sự to lớn, giàu có vốn tiềm tàng trong mỗi con người chúng ta. Chúng ta cần lắm những lời nhắc nhở như thế trong thời đại tù mù những giá trị này.
Cái gì có thể giúp các bạn trẻ tạo nên đôi cánh? Đại học là một con đường, tuy chắc không phải con đường duy nhất, là nơi các bạn đang bước vào và theo đuổi việc học. Đại học có thể đem lại những giá trị nào? Charles William Eliot, chủ tịch của đại học Harvard, người biến Harvard từ một trường college tỉnh lẻ lên thành một đại học nghiên cứu ưu việt, trong một bài diễn văn năm 1876 (mừng chủ tịch đầu tiên Daniel C. Gilman của đại học Johns Hopkins) có phát biểu những lời sau đây về những giá trị mà đại học có thể mang lại cho các bạn:
“Sự vĩ đại đích thực của một quốc gia không nằm ở lãnh thổ, thu nhập, dân số, thương mại, hoa màu hay hàng chế biến, mà chính ở các giá trị tinh thần và phi vật chất; ở sự tinh khiết, sự dũng cảm và tính chính trực của dân tộc đó, ở thi ca, văn chương, khoa học và nghệ thuật mà dân tộc đó đã tạo ra, ở giá trị đạo đức của lịch sử và đời sống của họ. Đối với quốc gia, cũng như cá nhân, không có gì khác hơn là sự ưu việt đạo đức mới là bất biến và vĩnh cửu có lợi. Các đại học, được dìu dắt khôn ngoan, lưu trữ vốn trí thức của giống nòi, và trở thành những nguồn suối của sức mạnh tinh thần và đạo đức. Ở đây các bước chân trẻ, tránh xa những lối mòn bẩn thỉu của ham muốn thấp kém và tham vọng trần tục, có thể bước đi trong những dấu chân của những người quá cố lừng lẫy – những nhà thơ, nghệ sĩ, triết gia và chính khách của quá khứ; ở đây những mái đầu tươi rói có thể thám hiểm những vùng đất mới và tăng trưởng vốn tri thức lên; ở đây chốc chốc những con người vĩ đại có thể được đào tạo thành các nhà lãnh đạo dân tộc; ở đây ánh sáng soi sáng của thiên tài chốc chốc loé lên để làm hoan hỉ nhân loại; trên hết, ở đây nhiều thế hệ của thanh niên có thể học lấy sự chính trực. (Charles W. Eliot, 1876)
Thời điểm bài nói chuyện của Eliot chưa lâu lắm. Nó nằm trong giai đoạn phát triển đỉnh cao của đại học châu Âu, đang lan truyền và tạo sự chuyển biến có tính chất cách mạng đến Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ và dần dần đến khắp thế giới.
Khoa học
Các bạn sinh viên, các anh chị quý mến,
Ngày 4 tháng 7 vừa qua thế giới nhận được tin ‘hoả tốc’, rằng trung tâm nghiên cứu hạt nhân CERN ở biên giới Thuỵ Sĩ và Pháp cuối cùng đã tìm ra hạt Higgs. Cuộc săn lùng gần nửa thế kỷ đã thành công. Với cơ chế hạt Higgs, các hạt cơ bản tạo ra vật chất trở nên có khối lượng. Bạn hãy tưởng tượng, vũ trụ là cánh đồng bùn bất tận, và bạn đi trong đó. Bạn sẽ thấy có sức nặng dưới chân. Đó chính là bạn đã có khối lượng từ sự tương tác của bạn với cánh đồng bùn. Không có hạt Higgs, không có thế giới, trái đất, và cả chúng ta.
Các bạn còn nhớ: Cách đây hơn hơn 3 thế kỷ, Newton đã đề ra hai khái niệm quan trọng: khối lượng và lực hấp dẫn, mà không lý giải được chúng là gì và từ đâu mà có. Phải đợi đến năm 1915, tức sau hơn 200 năm, Einstein mới giải mã được lực hấp dẫn bằng thuyết tương đối rộng của mình, điều đó đã đem lại cho ông vinh quang tột đỉnh. Giờ đây khái niệm khối lượng cũng được giải mã luôn.
Đó là câu chuyện thời sự.
Nhưng khoa học không phải khám phá những định luật tận cùng của vũ trụ chỉ để hiểu biết thuần tuý về lý thuyết, mà có những đóng góp rất quyết định vào sự thay đổi căn bản bộ mặt xã hội thế giới. Không có các cuộc cách mạng khoa học, cùng với các cuộc cách mạng công nghiệp là những người anh em sinh đôi, khó hình dung được cuộc sống ngày nay của chúng ta với những phúc lợi và tiện nghi như iPhone, iPad, xe hơi có hệ thống định vị GPS…
Các bạn hãy nghe nhà khoa học C. P. Snow, tác giả của quyển sách Hai nền văn hoá phát biểu:
Cuộc cách mạng khoa học là con đường duy nhất mà trên đó đa số con người có thể đạt đến những phúc lợi cơ bản (cuộc sống lâu, đầy đủ thực phẩm, con cái lành mạnh), những phúc lợi mà chúng ta nhận lấy một cách đương nhiên, nhưng lại là những phúc lợi trong thực tế chỉ được mang lại cho chúng ta chỉ vì cách đây không lâu chúng ta đã có cuộc cách mạng khoa học. Phần lớn con người đã hối hả lao vào cuộc cách mạng đó như cơ hội cho phép họ.
Lịch sử Khoa học
Các bạn đã biết khoa học hình thành từ bao giờ và tiến hoá ra sao? Đây là một chương rất thú vị của lịch sử khoa học để chúng ta biết vì sao và từ đâu chúng ta có cơ hội đứng đây hôm nay, đang sống trong thời đại này với rất nhiều tiện nghi tuyệt vời như chúng ta thấy. Chúng ta thử điểm lại vài nét chính.
Khoa học mà chúng ta hôm nay học, được các sử gia xem bắt nguồn từ thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên với các nhà khoa học đầu tiên như Thales, Anaximander, Anaximanes của thành phố Miletos, Hy Lạp cổ. Ý tưởng vĩ đại của họ là thế giới có thể được hiểu bằng lý trí của con người, chỉ cần có óc tò mò, quan sát và không mê tín. Thế giới theo họ không phải là chỗ tụ tập của thần linh để tuỳ tiện hoạt động và điều khiển, mà thế giới vận hành theo một cơ chế phức tạp với những định luật vĩnh cửu nội tại như một cosmos. Những người Babylon, Ai Cập biết nhiều về qui luật của các quỹ đạo tinh tú và hiện tượng nhật thực, nguyệt thực, nhưng họ chỉ tin đó là những sự huyền bí tôn giáo và không quan tâm tìm những lời giải thích bằng khoa học. Thời kỳ Thales được gọi là thời Khai minh Ionia, với văn hoá khai phóng và khoa học phát triển mạnh mẽ, chế độ chính trị thông thoáng, xuất phát từ vùng có địa danh Ionia phía Đông Hy Lạp, ngày nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ.
Các bạn nhớ thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên cũng là thế kỷ chào đời của Phật Thích Ca, Lão Tử và Khổng Tử ở phương Đông. Đó là một sự trùng hợp rất thú vị.
Nhưng rồi khoa học phải chia tay dòng suối hoạt động trí thức vào thế kỷ thứ 3 TCN sau khi nó đã đi vào trung tâm sinh hoạt văn hoá của Hy Lạp, để rồi, sau Plato, Aristote dần dần nhường chỗ cho những quan tâm về đạo đức, tôn giáo và siêu hình. Đến thế kỷ thứ 6 SCN, hoàng đế Justinian của Đế chế Byzantin (La Mã phía Đông, thủ đô Constantinople, nay Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ) đóng cửa các trường triết học Athen vì những gì được dạy ở đó không phù hợp với tinh thần của Kitô giáo. Năm trước, nhà triết học La Mã quan trọng cuối cùng Boethius cũng bị xử tử (Quyển sách nổi tiếng của ông để lại: Sự an ủi của triết học, Consolation of Philophy, năm 524). Hai sự kiện trên kết thúc giai đoạn phát triển tri thức cổ đại. Học thuật Hy Lạp không còn được chú ý. Châu Âu bước vào giai đoạn lịch sử gọi là “Thời kỳ đen tối” (Dark Ages).
Mãi ngót 2.000 năm sau, tức thế kỷ thứ 17, khoa học mới bừng sáng lại, với Galilei, Kepler, Descartes và Newton. Thế kỷ 17 là khúc quanh quan trọng của nhân loại đánh dấu thời đại khoa học và tư duy con người được cởi trói khỏi các sợi dây trói buộc thời Trung cổ. Trước đó, như khúc dạo đầu, năm 1543 Copernicus đã xuất bản quyển sách “Về sự chuyển động quay của các thiên thể”, gọi tắt Chuyển động quay, cho rằng mặt trời mới là trung tâm và trái đất mới quay xung quanh nó, không phải ngược lại. Ông chỉ dám phổ biến quan điểm đó trước khi ông mất, vì sợ quyền lực nhà thờ. Vũ trụ, cosmos, là một phần quan trọng trong đức tin của Công giáo La Mã. Ai muốn thay đổi trật tự của nó không tránh khỏi bị trừng phạt.
Nhưng nửa thế kỷ sau quyển sách Chuyển động quay của Copernicus, Galilei, như một Columbus trên trời, dám tranh đấu quyết liệt cho thuyết Copernicus sau khi ông nhìn thấy chứng cứ trên trời qua viễn vọng kính tự tạo. Ông là người đầu tiên biết dùng viễn vọng kính để khám phá bầu trời, và là người nhìn thấy nhiều nhất, do đó cũng bức xúc nhất. Cuộc đấu tranh kéo dài 24 năm rất gian truân, với cao điểm là tác phẩm nổi tiếng Dialogue, Đối thoại, được xuất bản năm 1632, để rồi kết thúc ngay sau đó bằng bản án lịch sử của nhà thờ bắt ông thề bỏ tín điều và ông đã bị quản thúc cho đến chết. Trong tuyệt vọng, vào những năm cuối đời, ông còn kịp viết thêm tác phẩm lớn Discorci (Nghị luận và Chứng minh toán học về Hai khoa học mới thuộc Cơ học và các Chuyển động), làm nền tảng của ngành vật lý hiện đại.
Galilei là một con người vĩ đại, đa tài đặc biệt. Những tác phẩm khoa học của ông đều là những án văn tuyệt tác có tính chất khai sáng tại bước ngoặc lịch sử của khoa học thế kỷ 17. Galilei tiếp nối tại Pisa, Padua, là những nơi ông đã từng hoạt động lâu năm, những gì Thales đã bắt đầu 2.000 năm trước tại Miletos.
Ngay sau bản án, các quyển sách bị cấm của ông Dialogue và Discorsi, được phổ biến mạnh mẽ ở nước ngoài, truyền đi cảm hứng cho cộng đồng khoa học châu Âu và tín hiệu của sự bứt phá. Isaac Newton là một trong những người đã đọc chúng ở tuổi thanh niên. Khoa học bừng lên phát triển như sau cơn ngủ đông 2.000 năm tại các quốc gia phía bắc dãy núi Alps, đặc biệt tại Hà Lan, Anh, Pháp, Đức. Trung tâm học thuật, từ Hy Lạp chuyển qua Ý, giờ đây chuyển lên phía Bắc châu Âu. Cả 200 năm sau bản án Galilei, buồn thay nước Ý ‘không dám’ có nhân tài đáng kể nữa.
Năm 1687, nghĩa là 45 năm sau ngày mất của Galilei, tác phẩm vĩ đại Các nguyên lý toán học của triết học tự nhiên, gọi tắt là Principia của Newton ra đời, phát triển và khái quát hoá những khám phá của Galilei và Kepler thành khoa học hiện đại có giá trị phổ quát với sự chứng minh chặt chẽ toán học, mở ra một thời kỳ mới của khoa học không thể đảo ngược.
Khoa học hiện đại, cái mà chúng ta học ngày nay hình thành khá đầy đủ hình dạng vào thế kỷ 17, khi hai dòng thác “âm dương” hội tụ: đó là khoa học lý thuyết, episteme, và kỹ thuật ứng dụng, techne. Người thực hiện sự kết nối, tổng hợp của hai dòng thác này chính là Galilei, con người của cả lý thuyết lẫn thực hành.
Đặc điểm của xã hội phương Tây là không ngừng chuyển động. Các lực lượng sản xuất phát triển liên tục từ các thế kỷ 8,9 đến 15, 16 của thời Phục Hưng. Một lực lượng nghệ nhân, thủ công, tính toán, xây dựng đông đảo xuất hiện. Họ đều là những nghệ nhân đa năng, những người thực hành rất giỏi, tuy không được đào tạo qua trường lớp về lý thuyết. Hình tượng cao nhất của những con người đa năng đó là Leonardo da Vinci (1452-1519), một tài năng kiệt xuất.
Trong khi đó, khoa học dưới dạng kinh viện cũng không ngừng phát triển trong các đại học. Khoa học, triết học, y khoa, toán học của Hy Lạp cổ đại và Ả rập, thông qua cuộc dịch thuật vĩ đại thế kỷ 12 và 13, vẫn được tiếp tục phát triển trong đại học, tuy có phần bị che khuất bởi tấm vải giáo điều được tạo ra sai lầm từ triết học Aristote và kinh thánh. Nhưng sự kỳ diệu cuối cùng đã đến: sự hợp nhất của lý thuyết và thực hành, của hình ảnh học giả và người thợ thủ công để cho ra đời khoa học hiện đại. “Khoa học nối kết lý thuyết và thí nghiệm bắt đầu thật sự với công việc của Galilei” như Einstein & Infeld nói.
Joseph Needham, nhà Trung Hoa học lớn của thế kỷ 20 đặt câu hỏi tại sao hai dòng thác đó lại hội tụ tại phương Tây mà không phải tại phương Đông? Có nhiều cách lý giải. Joseph Needham tự trả lời một cách:
“Mối quan tâm đến tự nhiên không đủ, thí nghiệm có kiểm soát không đủ, phép qui nạp, thực nghiệm không đủ, sự tiên đoán nhật thực nguyệt thực và tính toán lịch không đủ - tất cả những điều đó người Trung Hoa đã có; rõ ràng chỉ một nền văn hoá trọng thương (mercantile) mới có năng lực thực hiện được những gì mà một nền văn minh nông nghiệp quan liêu không làm được, tức là hợp nhất được những ngành trước đó bị chia cắt của toán học và nhận thức tự nhiên.”
Trước thế kỷ 16 các nền văn minh lớn của thế giới xem như gần gũi nhau, nhưng từ thế kỷ 17 trở đi châu Âu đã bứt đi một cách không đảo ngược được. Lịch sử đã phân kỳ với các hệ quả ghê gớm cho nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Đại học
Đại học mà các bạn đang theo học có tiền thân từ khoảng cuối thế kỷ 11 và 12 thời Trung cổ, gọi là universitas, tại cái nôi châu Âu. Sự ra đời của đại học Bologna, Paris, Oxford và Cambridge chấm dứt đêm dài của thời kỳ đen tối. Đó là sự chuyển động của học thuật ra khỏi tu viện để thâm nhập vào xã hội. Các tu sĩ tin rằng nó sẽ phát triển tốt hơn, rộng rãi hơn, phục vụ xã hội nhiều hơn. Học thuật bắt đầu lan toả xuyên quốc gia và phát triển mạnh.
Đại học Trung cổ đánh dấu sự ra đời của một tầng lớp trí thức độc lập, không lệ thuộc vào bộ máy quyền lực và bổng lộc, muốn có vai trò tích cực trong xã hội như những tác nhân, kẻ sáng tạo, không giống nhiều nền văn hoá khác mà ở đó sự sáng tạo đã bị trao về bộ máy cầm quyền hay cho thần linh, tôn giáo, con người không có vai trò gì đáng kể trong cuộc khám phá vĩ đại của nhân loại. Lịch sử của châu Âu là lịch sử của sự khẳng định con người, cá nhân với dấu ấn mạnh mẽ của nó, từ suối nguồn của văn minh Hy Lạp: “Các dân tộc khác làm ra thần thánh, vua chúa và ma quỷ. Chỉ có dân tộc Hy Lạp làm ra con người” (W. Jaeger), đặt con người vào vị trí trung tâm.
Nói đến đại học Trung cổ không thể không nói đến cuộc dịch thuật vĩ đại cùng thời kỳ để chuyển ngữ sang tiếng La tinh những tác phẩm kinh điển của các học giả Hy Lạp như Aristote, Euclid, Hippocrates, Galen, Ptolemy và của một số học giả Ả rập như Alhazen (Quang học), al-Khawarizmi (Đại số). Cuộc dịch thuật này ảnh hưởng quyết định đến đời sống trí thức châu Âu trong việc hình thành một thế giới quan đầy tính lý tính, lô gích, khoa học xem thế giới là một cỗ máy được tổ chức tinh vi nhưng có thể hiểu được, từ các hành tinh đến con người, động vật, vật chất vô sinh, thể hiện tiếp truyền thống của Khai minh Ionia.
Tại Trung Hoa, cùng lúc, phong trào học thuật sống dậy cũng vào thế kỷ 12, với chủ nghĩa Tân-Khổng giáo, Chu Hy, người tiêu chuẩn hoá các bộ sách Tứ thư, Ngũ kinh dùng cho các kỳ thi hoàng gia chọn nhân tài phục vụ bộ máy nhà nước và tồn tại cho đến thế kỷ 20. Nhưng nền học thuật Trung Hoa thiếu các hạt giống khoa học, triết học của Hy Lạp và phương Tây. Khổng giáo không quan tâm đến khoa học, chỉ quan tâm đến đạo đức và nhân văn.
Cuối thế kỷ 15, châu Âu hầu hết được bao phủ bởi một mạng lưới đại học đáng kể, ước tính có khoảng trên 80 đại học mà phần lớn vẫn còn tồn tại hôm nay. Anh quốc, ngoài Oxford, Cambridge có thêm các đại học Glasgow, St. Andrew, Aberdeen. Bắc Âu có Kopenhagen, Uppsala. Pháp, Đức, Ý, Tây Ban Nha có rất nhiều đại học. Trong thời gian 1350-1500 có khoảng 750.000 người đã ghi danh, một con số rất ấn tượng trong thời bấy giờ.
Nhưng khi cuộc cách mạng khoa học thế kỷ 17 diễn ra thì đại học chưa phải là cái nôi của khoa học, một sự “trớ trêu” của lịch sử! Khoa học mới, nảy mầm từ thực nghiệm, được tiến hành dưới dự bảo trợ của các mạnh thường quân, hay của các đại danh tại các lãnh địa, nhưng không diễn ra trong khuôn viên đại học. Vì sao? Bởi vì đại học lúc bấy giờ còn bị chiếm lĩnh bởi tinh thần kinh viện giáo điều và xem thường thực nghiệm (experiment). Muốn cho khoa học tiến vào đại học, châu Âu phải cần có một cuộc cách mạng tiếp nối. Đó là cuộc cách mạng của đại học Đức theo tinh thần của Wilhelm von Humboldt vào đầu thế kỷ 19.
Đại học Humboldt
Nếu với sự ra đời của đại học Trung cổ, học thuật được thể chế hoá, tạo ra cái nhà của minh triết thì 6 thế kỷ sau, với sự ra đời của đại học Đức theo tinh thần Humboldt, khoa học được thể chế hoá rộng rãi ở một cấp bậc cao. Thể chế hoá học thuật là đặc thù của châu Âu, mà các nền văn minh khác, như Islam hay Trung Hoa, tuy từng có những tiến bộ lớn hơn, nhưng lại không có.
Đại học Berlin, tức Đại học Humboldt sau này, được thành lập năm 1810, có thể được tóm tắt như sau: «Đó là một thể chế trong đó những người giảng dạy và người đi học qui tụ lại như những người nghiên cứu bình đẳng trong sự thống nhất của nghiên cứu và giảng dạy để truy tìm khoa học thuần túy trong sự cô đơn và tự do, và qua quá trình này đạt tới sự hoàn thiện về tinh thần và đạo đức.» (Werry) Hai cột trụ chính của các nguyên lý là nghiên cứu và tự do hàn lâm, bao hàm tự do dạy và tự do học. Khoa học trở thành hình thức của cuộc sống, triết lý sống (Wissenschaft als Lebensform) và là nòng cốt của giáo dục (Bildung durch Wissenschaft).
Với Wilhelm von Humboldt, đại học trở thành đại học của khoa học, văn hóa, của sự tự rèn luyện toàn diện nhân cách con người, do đó có mang tính đạo đức, nhân văn và là hạt giống trí tuệ của quốc gia. Đại học sẽ làm cho con người thành những chủ thể nhân văn, và thông qua họ, làm cho bộ máy nhà nước nhân văn và khai sáng. Đại học Berlin, cùng với cuộc cải cách giáo dục phổ thông của Humboldt, mang sứ mệnh làm chuyển đổi cả một nhà nước cũ kỹ vừa bị quân đội của Napoleon đánh sập thành một nhà nước hiện đại để vực dậy đất nước, “lấy sức mạnh tinh thần để bù đắp những mất mát vật chất”. Humboldt là người đã nhìn thấy xa các yêu cầu tối thượng của cuộc canh tân đất nước, và Đại học Humboldt chính là đại học trồng người, và là nguồn nguyên khí quốc gia cho mục tiêu đó.
Đại học Berlin ra đời không phải từ ý tưởng của giới quản lý giáo dục, hay chính trị, mà từ những ý tưởng của giới văn chương và triết học duy tâm Đức. Một sự liên minh giữa triết học, khoa học và văn hoá diễn ra. Nhà triết học cũng là nhà khoa học và văn hoá. Nhà văn hoá cũng là nhà triết học và khoa học. Nhà khoa học cũng là nhà triết học và văn hoá. Tinh thần triết học và nhân văn này vẫn tiếp tục tồn tại lâu dài ở những nhà khoa học sau khi khoa học tự nhiên thực nghiệm đã thắng thế.
Đại học Humboldt đã khơi đúng mạch tri thức của thời đại tích tụ từ thời Kepler, Galilei, Descartes và Newton, và dần dần trở thành bà mẹ, alma mater, của đại học hiện đại thế giới. Bên kia bờ Đại tây dương, dưới ảnh hưởng mạnh mẽ của đại học Đức, nước Mỹ tiến hành cuộc cách mạng giáo dục đại học trong những năm của nửa sau thế kỷ 19, với những con người đã từng học tại các đại học Đức. Khoa học bước vào giai đoạn phát triển rực rỡ và vũ bão trên toàn thế giới.
Ai trị vì thế giới?
Chúng ta vừa điểm qua lịch sử hình thành của khoa học và đại học. Thế kỷ giữa 19 và 20 là thế kỷ thế giới biến đổi sâu xa và cơ bản nhất, hơn bất kỳ thế kỷ nào trước đó. Tất cả những biến đổi đó, như Stephen Hawking nhận xét, “không phải do những học thuyết chính trị hay kinh tế mới nào, mà do những sự phát triển kỹ thuật bão táp được tạo điều kiện bởi những tiến bộ trong nghiên cứu cơ bản” gây ra.
Các cuộc cách mạng khoa học không ngừng rút ngắn khoảng đường tác động vào đời sống kinh tế, ngày càng có ảnh hưởng trực tiếp hơn. Những quốc gia phát triển đi tìm sự phồn vinh của mình từ những tiến bộ khoa học kỹ thuật cao cấp cho nên đầu tư rất lớn vào đó, vào chính sách giáo dục toàn dân, truyền bá khoa học đại chúng, xây dựng cơ sở hạ tầng tri thức, đại học, thư viện, cơ sở nghiên cứu, con người. Đây là một cuộc chạy đua mạnh mẽ toàn cầu. Xã hội cũng như kinh tế đều lấy tri thức làm gốc.
Tôi xin mượn những lời sau đây của nhà toán học và triết học Anh nửa đầu thế kỷ 20 Alfred North Whitehead nói về ảnh hưởng của khoa học trong lịch sử nhân loại. Ông viết:
Những người chinh phục vĩ đại, từ Alexander đến Caesar, và từ Caesar đến Napoleon, ảnh hưởng sâu sắc cuộc sống của các thế hệ sau. Nhưng tổng hiệu quả của ảnh hưởng này rút lại trở thành tầm thường nếu so sánh với toàn bộ sự biến đổi của thói quen và tâm tính con người gây ra dài hạn bởi một chuỗi dài những con người của tư duy từ Thales đến ngày hôm nay, những người xét về cá nhân không có quyền lực gì, nhưng tối hậu lại chính là những người trị vì thế giới.
Khoa học vào phương Đông
Còn phương Đông thì sao? Văn minh của Đông và Tây đã khá sớm mang đậm những nét đặc thù của sự phân kỳ (divergence, chia tay) Hai lối tư duy trong học thuật của Đông Tây hình thành cùng thời kỳ, giai đoạn Hy Lạp hoá (Hellenistic) ở phương Tây, và giai đoạn nhà Hán ở phương Đông, khoảng hai thế kỷ trước và sau Công Nguyên nhưng rất khác nhau (hai giai đoạn đều bắt đầu bằng chữ H !). Một bên cái học chuộng triết học, biện chứng, y khoa, các khoa học toán như số học, hình học, thiên văn, tĩnh học; một bên sự học Khổng giáo được nâng lên thành giá trị cao nhất, y khoa và toán học chiếm hàng thứ yếu. Trong khi cái học của phương Tây mang đậm tính chất hùng biện và lô gích, phân tích và tranh luận để tìm cái mới, thì cái học của Trung Hoa đậm nét của sự học tư liệu, từ chương, trả bài, theo chính thống. Có lẽ khẩu hiệu của Plato trước hàn lâm viện ông “Ai không thành thạo hình học thì đừng vào đây” minh hoạ tinh thần học thuật đượm nét khoa học cao độ của học thuật phương Tây. Cũng chưa ở đâu trên thế giới xuất hiện một loạt đông đảo các nhà khoa học trí thức như ở Hy Lạp: Thales, Pythagoras, Zeno, Democritos, Hippocrates, Plato, Aristote, Euclid, Aristarchos, Archimedes, Ptolemy và còn nhiều người nữa. Galilei đã từng xem Archimedes là thầy của mình, và ngược lại ông cũng được xem là một Archimedes của thời cận đại.
Chúng ta cần nhìn vào phản ứng của hai quốc gia Trung Hoa và Nhật Bản để thấy sự khác biệt cơ bản khi khoa học truyền bá vào. Khoa học phương Tây được truyền vào Trung Hoa khá sớm, từ thế kỷ 17, theo chân các cha Dòng Tên. Nhưng vua quan Trung Hoa nhất định không muốn chấp nhận sự ưu việt của khoa học phương Tây, mà chỉ muốn tự hào về sự ưu việt của di sản văn hoá đồ sộ mình. Họ dùng âm dương, ngũ hành, kinh dịch để lý giải mọi việc trên đời, từ khoa học, y học đến đời sống, tương lai, vận mệnh con người và xã hội. Họ tìm cách qui chiếu tất cả khoa học hiện đại phương Tây về khoa học cổ truyền Trung Hoa, và cho rằng khoa học phương Tây đã có gốc rễ trong di sản khoa học Trung Hoa rồi. Họ chỉ xem phương Tây có công nghệ, kỹ thuật hữu dụng thôi, điều đó họ cần học để làm lịch, chế tạo súng đạn và tàu chiến, và chỉ thế thôi. Khẩu hiệu "Trung học vi thể, Tây học vi dụng" (Sự học Trung Hoa phục vụ cái căn bản, Sự nghiên cứu phương Tây phục vụ cái hữu dụng) của Trương Chi Đông (Zhang Zhidong), 1898, diễn tả thái độ nói trên. Cuối thế kỷ 18, đầu 19, vua Càn Long cũng từ chối bang giao thương mại với phương Tây, thực tế họ cũng đang xuất khẩu nhiều hàng hoá sang phương Tây. Nhưng họ không biết rằng Anh quốc lúc đó, với sức mạnh vô địch của cuộc cách mạng công nghiệp thế kỷ 18, đang làm bá chủ trên biển và đang trở thành một ‘đế chế mặt trời không bao giờ lặn”. Trung Hoa thật sự đang chết lâm sàng mà không hay.
Còn Nhật Bản thì sao? Họ tự hào là con cháu của nữ thần mặt trời, không bao giờ tha thứ cho kẻ lạ mặt đặt chân lên đất nước họ. Khoa học phương Tây cũng được truyền vào đất nước này khá sớm. Chỉ vài năm sau khi Copernicus xuất bản tác phẩm Chuyển động quay ở châu Âu thì những vị truyền giáo phương Tây cũng đã có mặt ở Nhật Bản mang theo những kiến thức khoa học và y khoa. Nhưng Nhật Bản đã đóng cửa, đuổi hết họ, cũng như Việt Nam, để bảo vệ truyền thống văn hoá của mình, nhưng vẫn còn chừa một cửa ngõ thông thương và thông tin tại cảng Nagasaki với quốc gia duy nhất là Hà Lan để nghe ngóng tình hình thế giới.
Mãi cho đến năm 1853 khi những chiếc tàu đen của Commodore Perry bắn vào Tokyo để buộc mở cửa thông thương thì giai cấp cầm quyền Nhật Bản là giai cấp samurai tỉnh ngộ. Họ nhanh chóng mở cửa và cải cách toàn diện: chính trị, kinh tế, thương mại, khoa học, giáo dục và quân sự. Họ đi tìm khai sáng ở phương Tây. Họ thuê cả mấy ngàn chuyên gia nước ngoài về làm việc tại Nhật Bản để tư vấn họ, rất khẩn trương để khỏi bị phương Tây nuốt chửng. Và chỉ khoảng 30 năm sau Minh Trị Duy Tân 1868, họ đã chiến thắng vang dội nhà Thanh trong cuộc chiến tranh Nhật-Thanh 1894-95. Mười năm sau, họ đánh thắng luôn quân đội Nga hoàng. Các samurai đã liên tiếp quật ngã những người khổng lồ, cho thấy sức mạnh vô địch của cuộc cải cách theo mô hình phương Tây. Họ có thể tự hào là dân tộc đầu tiên đã mang ánh sáng khoa học và văn minh phương Tây về châu Á.
Vì sao Nhật Bản thành công thần tốc như thế? Hãy nhìn vào văn hoá đọc sách của họ. Họ là một dân tộc cực kỳ năng động và tò mò. Những cuốn sách, như Bàn về tự do, Tự-lo, bán ở phương Tây vài trăm ngàn bản, khi được dịch sang tiếng Nhật thời Minh Trị Duy Tân bán lên cả triệu bản; hay như những quyển sách được biên soạn của nhà khai sáng Fukuzawa Yukichi. Người Nhật mê cuồng đọc sách thời mở cửa. Tại sao? Nhật Bản cũng là quốc gia theo Khổng giáo như Việt Nam và Hàn Quốc. Nhưng nhìn sâu hơn, họ là dân tộc có văn hoá đọc và giáo dục đã phát triển mạnh mẽ ngay trong thời đóng cửa Tokugawa 1600-1868. Cuối thời này, Nhật Bản là quốc gia đầy ắp sách vở và trường học. Một đánh giá thô ước tính rằng vào thời điểm Minh Trị, 40-50% tất cả con trai Nhật, và 15% con gái Nhật đều có qua trường lớp ngoài gia đình. (Việt Nam lúc đó còn mù chữ phổ biến) Điều này gợi ra rằng mức độ biết chữ của Nhật Bản lớn hơn tất cả những quốc gia phương Tây có cùng sự phát triển kinh tế. Một người Pháp viết năm 1877 rằng “giáo dục sơ cấp ở Nhật Bản đã đạt đến mức độ làm cho chúng ta xấu hổ…Không có làng nào mà không có trường học, hầu như không có người nào không biết đọc…”
Trong hơn hai thế kỷ rưỡi đóng cửa được canh gác chặt chẽ, trí thức Nhật đã làm nên một cuộc dịch thuật khoa học vĩ đại từ sách vở Hà Lan để hiểu cuộc cách mạng khoa học, công nghệ diễn ra ở châu Âu. Cuộc dịch thuật khó nhọc và không kém phần nguy hiểm, đôi khi phải trả giá bằng tính mạng, nhưng trí thức Nhật đã thể hiện tinh thần trách nhiệm cao cả của mình đối với quốc gia, rằng họ không thể yêu nước trong sự vô minh. Cuộc dịch thuật này góp phần thay đổi hệ hình tư duy truyền thống của Nhật Bản nhanh chóng trong thời Minh Trị. Đọc sách là việc làm của lòng yêu nước, nhất là của giới tinh hoa cầm quyền samurai, không phải chỉ để thưởng ngoạn, mà để khai minh, khai trí và để khai sinh một thời đại mới cho đất nước. Đọc sách là thuộc tính của một dân tộc văn hoá có ý thức. Họ không sợ học của kẻ thù, chỉ sợ ngu muội vì không học. Một ngàn năm trước họ đã học Trung Hoa. Một ngàn năm sau họ học phương Tây. Họ không sợ mất mặt. Và họ đã thành công. Cả thế giới kính nể.
Chúng ta, những người Việt Nam, có một món nợ rất lớn đối với lịch sử: đó là thiếu ý thức và hiểu biết đầy đủ về sức mạnh của khoa học, công nghệ, của giáo dục, và các thể chế cần thiết trong việc xây dựng một đất nước phú cường. Vì thế tôi càng đánh giá cao việc trường Đại học Hoa Sen năm nay có lẽ lần đầu tiên tại Việt Nam có một giáo trình Lịch sử tư duy khoa học thế giới, do thầy Hoàng Anh Tuấn Kiệt phụ trách. Tôi xin nhiệt liệt giới thiệu các bạn trẻ.
Lý tưởng Tuổi trẻ
Các bạn sinh viên và anh chị quý mến,
Chúng ta vừa làm một cuộc hành trình về lịch sử của khoa học, đại học và của ý nghĩa chúng. Sau cùng, tôi xin mượn mấy lời tâm huyết sau đây của Abraham Lincoln trong bài diễn thuyết trước học sinh trường trung học Springfield bang Illinois năm 1838, để nói với các bạn trẻ như những lời kết cho buổi nói chuyện hôm nay. Abraham Lincoln nói, những cánh đồng vinh quang của quá khứ đã được thu hoạch và sử dụng rồi, nhưng những người thu hoạch mới chắc chắn sẽ xuất hiện, do đó họ phải tìm cho mình một cánh đồng mới và gieo trồng lấy. Họ có thể tìm lấy vinh quang bằng cách hỗ trợ và gìn giữ một lâu đài được xây nên bởi người khác chăng? Chắc không. Có nhiều người đầy đủ tài giỏi để thực hiện những nhiệm vụ của mình nhưng không khao khát gì xa hơn mấy chiếc ghế trong Quốc hội, hay trong chính phủ. Nhưng những người đó không thuộc về dòng sư tử, hay họ đại bàng. Sao, các bạn nghĩ những vị trí đó sẽ thoả mãn một Alexander, một Ceasar, hay Napoleon chăng? Không bao giờ. Thiên tài cao ngất xem thường lối mòn đã đi. Họ tìm những vùng đất chưa bao giờ khai phá. Họ không tìm sự khác biệt trong việc thêm bớt một hai chi tiết ở những tượng đài của sự nổi tiếng được dựng lên trong ký ức của những người khác. Họ từ chối cho rằng phục vụ một người chủ là đủ vinh quang. Họ ghét bước theo dấu chân của bất cứ ai khác, dù nổi tiếng đến đâu. Họ khao khát cháy bỏng sự khác biệt.
Những trang lịch sử oai hùng rồi đây cũng sẽ đi qua, phai nhạt trong ký ức. Chúng là tiền đồn của sức mạnh, nhưng cái mà một kẻ thù xâm lược không làm được, thì trọng pháo của thời gian có thể làm được: đó là sự im bặt. Đó là một cánh rừng của những cây sồi, nhưng trận cuồng phong không gì cưỡng lại được tràn qua, chỉ để lại đó đây những thân cây trợ trụi không còn màu xanh của sự sống, chẳng còn một bóng mát, chỉ còn thì thầm trong vài cơn gió nhẹ, chiến đấu với những cành nhánh đã bị què quặt, và chỉ chờ vài trận bảo lớn nữa để chìm đi vĩnh viễn.
Chúng là những cột trụ của lâu đài độc lập, tự do, Abraham Lincoln nói tiếp. Chúng đang bị vỡ đi, toà lâu đài sẽ có nguy cơ sụp đổ, trừ khi chúng ta, những kẻ hậu sinh, cung cấp những cột trụ mới, nhưng lấy từ đâu?, - từ những tảng đá rắn chắt của lý trí tỉnh táo. Sự cuồng nhiệt (passion) đã giúp chúng ta một thời, nhưng có thể nguy hiểm trong tương lai. Lý tính (reason), lý tính tỉnh táo, được suy tính và không cuồng nhiệt, sẽ cung cấp cho chúng ta các chất liệu cho sự hỗ trợ và bảo vệ tương lai. Hãy để các chất liệu ấy hun đúc thành trí khôn đầy đủ và đạo lý trong sáng trước tình yêu và sự kính trọng những quyền lợi tối thượng của tổ quốc. Chúng ta không cho phép các đôi chân thù địch giẫm lên hay báng bổ chỗ an nghỉ thiêng liêng của những anh hùng liệt sĩ dân tộc, hay đánh thức họ dậy.
Các bạn trẻ thân mến, đó là những lời của Abraham Lincoln về Hoa Kỳ mà tôi đã kết lại cho chúng ta, những người Việt Nam hôm nay. Ông viết những dòng hùng hồn trên về lý tưởng tuổi trẻ lúc chỉ mới 28 tuổi, không lớn hơn các bạn hôm nay bao nhiêu. Tuyệt vời và truyền cảm mạnh mẽ phải không? Thực tế, Abraham Lincoln đã sống đúng với những gì ông đã viết, và ông là một cột trụ không lay chuyển được của lịch sử Hoa Kỳ.
Các bạn sinh viên trẻ quý mến, các bạn hãy chứng tỏ rằng tương lai đất nước này thuộc về các bạn, rằng các bạn sẽ cung cấp cho đất nước này mỗi người mỗi cách những cột trụ vững chắc mới để chống đỡ, thì đất nước mới được vững bền!
Xin chúc các bạn trẻ hãy gìn giữ lý tưởng cho đường xa. Không phải “lấy ngắn nuôi dài” như người ta thường nói về cách làm ăn của những người nghèo, điều đó thông cảm, mà ngược lại “lấy dài, lấy lý tưởng vô hạn của các bạn, để nuôi dưỡng các bước chân hữu hạn trên đường xa” của những người giàu, rất giàu lý tưởng, để chúng ta trở lại những ý tưởng cao cả ban đầu của nhà thơ Rumi!
Xin cám ơn tất cả các bạn.
TP Hồ Chí Minh, 5 tháng 10 năm 2012
Nguyễn Xuân Xanh
Khoa học, Đại học và Lý tưởng tuổi trẻ
Nguyễn Xuân Xanh
Nguyễn Xuân Xanh
Bạn đã sinh ra với tiềm năng.
Bạn đã sinh ra với tư chất tốt và lòng tin.
Bạn đã sinh ra với các lý tưởng và những giấc mơ.
Bạn đã sinh ra với sự vĩ đại. Bạn đã sinh ra với đôi cánh.
Bạn sinh ra không phải để bò, nên đừng làm thế.
Bạn có cánh. Hãy học sử dụng chúng và bay.
Rumi
Bạn đã sinh ra với tư chất tốt và lòng tin.
Bạn đã sinh ra với các lý tưởng và những giấc mơ.
Bạn đã sinh ra với sự vĩ đại. Bạn đã sinh ra với đôi cánh.
Bạn sinh ra không phải để bò, nên đừng làm thế.
Bạn có cánh. Hãy học sử dụng chúng và bay.
Rumi
Nội dung:
Mở đầu/ Khoa học/ Lịch sử khoa học/ Đại học/ Đại học Humboldt/ Ai 'trị vì' thế giới?/ Khoa học vào phương Đông/ Lý tưởng tuổi trẻ.
Mở đầu
Các bạn sinh viên, các giảng viên và anh chị quý mến,
Tôi xin được bắt đầu buổi nói chuyện hôm nay với những vần thơ như thế của nhà thơ Ba tư Rumi thế kỷ thứ 13, người có ảnh hưởng lớn đến văn học Hồi giáo, những vần thơ như muốn nhắc nhở và đánh thức lại sự to lớn, giàu có vốn tiềm tàng trong mỗi con người chúng ta. Chúng ta cần lắm những lời nhắc nhở như thế trong thời đại tù mù những giá trị này.
Cái gì có thể giúp các bạn trẻ tạo nên đôi cánh? Đại học là một con đường, tuy chắc không phải con đường duy nhất, là nơi các bạn đang bước vào và theo đuổi việc học. Đại học có thể đem lại những giá trị nào? Charles William Eliot, chủ tịch của đại học Harvard, người biến Harvard từ một trường college tỉnh lẻ lên thành một đại học nghiên cứu ưu việt, trong một bài diễn văn năm 1876 (mừng chủ tịch đầu tiên Daniel C. Gilman của đại học Johns Hopkins) có phát biểu những lời sau đây về những giá trị mà đại học có thể mang lại cho các bạn:
“Sự vĩ đại đích thực của một quốc gia không nằm ở lãnh thổ, thu nhập, dân số, thương mại, hoa màu hay hàng chế biến, mà chính ở các giá trị tinh thần và phi vật chất; ở sự tinh khiết, sự dũng cảm và tính chính trực của dân tộc đó, ở thi ca, văn chương, khoa học và nghệ thuật mà dân tộc đó đã tạo ra, ở giá trị đạo đức của lịch sử và đời sống của họ. Đối với quốc gia, cũng như cá nhân, không có gì khác hơn là sự ưu việt đạo đức mới là bất biến và vĩnh cửu có lợi. Các đại học, được dìu dắt khôn ngoan, lưu trữ vốn trí thức của giống nòi, và trở thành những nguồn suối của sức mạnh tinh thần và đạo đức. Ở đây các bước chân trẻ, tránh xa những lối mòn bẩn thỉu của ham muốn thấp kém và tham vọng trần tục, có thể bước đi trong những dấu chân của những người quá cố lừng lẫy – những nhà thơ, nghệ sĩ, triết gia và chính khách của quá khứ; ở đây những mái đầu tươi rói có thể thám hiểm những vùng đất mới và tăng trưởng vốn tri thức lên; ở đây chốc chốc những con người vĩ đại có thể được đào tạo thành các nhà lãnh đạo dân tộc; ở đây ánh sáng soi sáng của thiên tài chốc chốc loé lên để làm hoan hỉ nhân loại; trên hết, ở đây nhiều thế hệ của thanh niên có thể học lấy sự chính trực. (Charles W. Eliot, 1876)
Thời điểm bài nói chuyện của Eliot chưa lâu lắm. Nó nằm trong giai đoạn phát triển đỉnh cao của đại học châu Âu, đang lan truyền và tạo sự chuyển biến có tính chất cách mạng đến Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ và dần dần đến khắp thế giới.
Khoa học
Các bạn sinh viên, các anh chị quý mến,
Ngày 4 tháng 7 vừa qua thế giới nhận được tin ‘hoả tốc’, rằng trung tâm nghiên cứu hạt nhân CERN ở biên giới Thuỵ Sĩ và Pháp cuối cùng đã tìm ra hạt Higgs. Cuộc săn lùng gần nửa thế kỷ đã thành công. Với cơ chế hạt Higgs, các hạt cơ bản tạo ra vật chất trở nên có khối lượng. Bạn hãy tưởng tượng, vũ trụ là cánh đồng bùn bất tận, và bạn đi trong đó. Bạn sẽ thấy có sức nặng dưới chân. Đó chính là bạn đã có khối lượng từ sự tương tác của bạn với cánh đồng bùn. Không có hạt Higgs, không có thế giới, trái đất, và cả chúng ta.
Các bạn còn nhớ: Cách đây hơn hơn 3 thế kỷ, Newton đã đề ra hai khái niệm quan trọng: khối lượng và lực hấp dẫn, mà không lý giải được chúng là gì và từ đâu mà có. Phải đợi đến năm 1915, tức sau hơn 200 năm, Einstein mới giải mã được lực hấp dẫn bằng thuyết tương đối rộng của mình, điều đó đã đem lại cho ông vinh quang tột đỉnh. Giờ đây khái niệm khối lượng cũng được giải mã luôn.
Đó là câu chuyện thời sự.
Nhưng khoa học không phải khám phá những định luật tận cùng của vũ trụ chỉ để hiểu biết thuần tuý về lý thuyết, mà có những đóng góp rất quyết định vào sự thay đổi căn bản bộ mặt xã hội thế giới. Không có các cuộc cách mạng khoa học, cùng với các cuộc cách mạng công nghiệp là những người anh em sinh đôi, khó hình dung được cuộc sống ngày nay của chúng ta với những phúc lợi và tiện nghi như iPhone, iPad, xe hơi có hệ thống định vị GPS…
Các bạn hãy nghe nhà khoa học C. P. Snow, tác giả của quyển sách Hai nền văn hoá phát biểu:
Cuộc cách mạng khoa học là con đường duy nhất mà trên đó đa số con người có thể đạt đến những phúc lợi cơ bản (cuộc sống lâu, đầy đủ thực phẩm, con cái lành mạnh), những phúc lợi mà chúng ta nhận lấy một cách đương nhiên, nhưng lại là những phúc lợi trong thực tế chỉ được mang lại cho chúng ta chỉ vì cách đây không lâu chúng ta đã có cuộc cách mạng khoa học. Phần lớn con người đã hối hả lao vào cuộc cách mạng đó như cơ hội cho phép họ.
Lịch sử Khoa học
Các bạn đã biết khoa học hình thành từ bao giờ và tiến hoá ra sao? Đây là một chương rất thú vị của lịch sử khoa học để chúng ta biết vì sao và từ đâu chúng ta có cơ hội đứng đây hôm nay, đang sống trong thời đại này với rất nhiều tiện nghi tuyệt vời như chúng ta thấy. Chúng ta thử điểm lại vài nét chính.
Khoa học mà chúng ta hôm nay học, được các sử gia xem bắt nguồn từ thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên với các nhà khoa học đầu tiên như Thales, Anaximander, Anaximanes của thành phố Miletos, Hy Lạp cổ. Ý tưởng vĩ đại của họ là thế giới có thể được hiểu bằng lý trí của con người, chỉ cần có óc tò mò, quan sát và không mê tín. Thế giới theo họ không phải là chỗ tụ tập của thần linh để tuỳ tiện hoạt động và điều khiển, mà thế giới vận hành theo một cơ chế phức tạp với những định luật vĩnh cửu nội tại như một cosmos. Những người Babylon, Ai Cập biết nhiều về qui luật của các quỹ đạo tinh tú và hiện tượng nhật thực, nguyệt thực, nhưng họ chỉ tin đó là những sự huyền bí tôn giáo và không quan tâm tìm những lời giải thích bằng khoa học. Thời kỳ Thales được gọi là thời Khai minh Ionia, với văn hoá khai phóng và khoa học phát triển mạnh mẽ, chế độ chính trị thông thoáng, xuất phát từ vùng có địa danh Ionia phía Đông Hy Lạp, ngày nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ.
Các bạn nhớ thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên cũng là thế kỷ chào đời của Phật Thích Ca, Lão Tử và Khổng Tử ở phương Đông. Đó là một sự trùng hợp rất thú vị.
Nhưng rồi khoa học phải chia tay dòng suối hoạt động trí thức vào thế kỷ thứ 3 TCN sau khi nó đã đi vào trung tâm sinh hoạt văn hoá của Hy Lạp, để rồi, sau Plato, Aristote dần dần nhường chỗ cho những quan tâm về đạo đức, tôn giáo và siêu hình. Đến thế kỷ thứ 6 SCN, hoàng đế Justinian của Đế chế Byzantin (La Mã phía Đông, thủ đô Constantinople, nay Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ) đóng cửa các trường triết học Athen vì những gì được dạy ở đó không phù hợp với tinh thần của Kitô giáo. Năm trước, nhà triết học La Mã quan trọng cuối cùng Boethius cũng bị xử tử (Quyển sách nổi tiếng của ông để lại: Sự an ủi của triết học, Consolation of Philophy, năm 524). Hai sự kiện trên kết thúc giai đoạn phát triển tri thức cổ đại. Học thuật Hy Lạp không còn được chú ý. Châu Âu bước vào giai đoạn lịch sử gọi là “Thời kỳ đen tối” (Dark Ages).
Mãi ngót 2.000 năm sau, tức thế kỷ thứ 17, khoa học mới bừng sáng lại, với Galilei, Kepler, Descartes và Newton. Thế kỷ 17 là khúc quanh quan trọng của nhân loại đánh dấu thời đại khoa học và tư duy con người được cởi trói khỏi các sợi dây trói buộc thời Trung cổ. Trước đó, như khúc dạo đầu, năm 1543 Copernicus đã xuất bản quyển sách “Về sự chuyển động quay của các thiên thể”, gọi tắt Chuyển động quay, cho rằng mặt trời mới là trung tâm và trái đất mới quay xung quanh nó, không phải ngược lại. Ông chỉ dám phổ biến quan điểm đó trước khi ông mất, vì sợ quyền lực nhà thờ. Vũ trụ, cosmos, là một phần quan trọng trong đức tin của Công giáo La Mã. Ai muốn thay đổi trật tự của nó không tránh khỏi bị trừng phạt.
Nhưng nửa thế kỷ sau quyển sách Chuyển động quay của Copernicus, Galilei, như một Columbus trên trời, dám tranh đấu quyết liệt cho thuyết Copernicus sau khi ông nhìn thấy chứng cứ trên trời qua viễn vọng kính tự tạo. Ông là người đầu tiên biết dùng viễn vọng kính để khám phá bầu trời, và là người nhìn thấy nhiều nhất, do đó cũng bức xúc nhất. Cuộc đấu tranh kéo dài 24 năm rất gian truân, với cao điểm là tác phẩm nổi tiếng Dialogue, Đối thoại, được xuất bản năm 1632, để rồi kết thúc ngay sau đó bằng bản án lịch sử của nhà thờ bắt ông thề bỏ tín điều và ông đã bị quản thúc cho đến chết. Trong tuyệt vọng, vào những năm cuối đời, ông còn kịp viết thêm tác phẩm lớn Discorci (Nghị luận và Chứng minh toán học về Hai khoa học mới thuộc Cơ học và các Chuyển động), làm nền tảng của ngành vật lý hiện đại.
Galilei là một con người vĩ đại, đa tài đặc biệt. Những tác phẩm khoa học của ông đều là những án văn tuyệt tác có tính chất khai sáng tại bước ngoặc lịch sử của khoa học thế kỷ 17. Galilei tiếp nối tại Pisa, Padua, là những nơi ông đã từng hoạt động lâu năm, những gì Thales đã bắt đầu 2.000 năm trước tại Miletos.
Ngay sau bản án, các quyển sách bị cấm của ông Dialogue và Discorsi, được phổ biến mạnh mẽ ở nước ngoài, truyền đi cảm hứng cho cộng đồng khoa học châu Âu và tín hiệu của sự bứt phá. Isaac Newton là một trong những người đã đọc chúng ở tuổi thanh niên. Khoa học bừng lên phát triển như sau cơn ngủ đông 2.000 năm tại các quốc gia phía bắc dãy núi Alps, đặc biệt tại Hà Lan, Anh, Pháp, Đức. Trung tâm học thuật, từ Hy Lạp chuyển qua Ý, giờ đây chuyển lên phía Bắc châu Âu. Cả 200 năm sau bản án Galilei, buồn thay nước Ý ‘không dám’ có nhân tài đáng kể nữa.
Năm 1687, nghĩa là 45 năm sau ngày mất của Galilei, tác phẩm vĩ đại Các nguyên lý toán học của triết học tự nhiên, gọi tắt là Principia của Newton ra đời, phát triển và khái quát hoá những khám phá của Galilei và Kepler thành khoa học hiện đại có giá trị phổ quát với sự chứng minh chặt chẽ toán học, mở ra một thời kỳ mới của khoa học không thể đảo ngược.
Khoa học hiện đại, cái mà chúng ta học ngày nay hình thành khá đầy đủ hình dạng vào thế kỷ 17, khi hai dòng thác “âm dương” hội tụ: đó là khoa học lý thuyết, episteme, và kỹ thuật ứng dụng, techne. Người thực hiện sự kết nối, tổng hợp của hai dòng thác này chính là Galilei, con người của cả lý thuyết lẫn thực hành.
Đặc điểm của xã hội phương Tây là không ngừng chuyển động. Các lực lượng sản xuất phát triển liên tục từ các thế kỷ 8,9 đến 15, 16 của thời Phục Hưng. Một lực lượng nghệ nhân, thủ công, tính toán, xây dựng đông đảo xuất hiện. Họ đều là những nghệ nhân đa năng, những người thực hành rất giỏi, tuy không được đào tạo qua trường lớp về lý thuyết. Hình tượng cao nhất của những con người đa năng đó là Leonardo da Vinci (1452-1519), một tài năng kiệt xuất.
Trong khi đó, khoa học dưới dạng kinh viện cũng không ngừng phát triển trong các đại học. Khoa học, triết học, y khoa, toán học của Hy Lạp cổ đại và Ả rập, thông qua cuộc dịch thuật vĩ đại thế kỷ 12 và 13, vẫn được tiếp tục phát triển trong đại học, tuy có phần bị che khuất bởi tấm vải giáo điều được tạo ra sai lầm từ triết học Aristote và kinh thánh. Nhưng sự kỳ diệu cuối cùng đã đến: sự hợp nhất của lý thuyết và thực hành, của hình ảnh học giả và người thợ thủ công để cho ra đời khoa học hiện đại. “Khoa học nối kết lý thuyết và thí nghiệm bắt đầu thật sự với công việc của Galilei” như Einstein & Infeld nói.
Joseph Needham, nhà Trung Hoa học lớn của thế kỷ 20 đặt câu hỏi tại sao hai dòng thác đó lại hội tụ tại phương Tây mà không phải tại phương Đông? Có nhiều cách lý giải. Joseph Needham tự trả lời một cách:
“Mối quan tâm đến tự nhiên không đủ, thí nghiệm có kiểm soát không đủ, phép qui nạp, thực nghiệm không đủ, sự tiên đoán nhật thực nguyệt thực và tính toán lịch không đủ - tất cả những điều đó người Trung Hoa đã có; rõ ràng chỉ một nền văn hoá trọng thương (mercantile) mới có năng lực thực hiện được những gì mà một nền văn minh nông nghiệp quan liêu không làm được, tức là hợp nhất được những ngành trước đó bị chia cắt của toán học và nhận thức tự nhiên.”
Trước thế kỷ 16 các nền văn minh lớn của thế giới xem như gần gũi nhau, nhưng từ thế kỷ 17 trở đi châu Âu đã bứt đi một cách không đảo ngược được. Lịch sử đã phân kỳ với các hệ quả ghê gớm cho nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Đại học
Đại học mà các bạn đang theo học có tiền thân từ khoảng cuối thế kỷ 11 và 12 thời Trung cổ, gọi là universitas, tại cái nôi châu Âu. Sự ra đời của đại học Bologna, Paris, Oxford và Cambridge chấm dứt đêm dài của thời kỳ đen tối. Đó là sự chuyển động của học thuật ra khỏi tu viện để thâm nhập vào xã hội. Các tu sĩ tin rằng nó sẽ phát triển tốt hơn, rộng rãi hơn, phục vụ xã hội nhiều hơn. Học thuật bắt đầu lan toả xuyên quốc gia và phát triển mạnh.
Đại học Trung cổ đánh dấu sự ra đời của một tầng lớp trí thức độc lập, không lệ thuộc vào bộ máy quyền lực và bổng lộc, muốn có vai trò tích cực trong xã hội như những tác nhân, kẻ sáng tạo, không giống nhiều nền văn hoá khác mà ở đó sự sáng tạo đã bị trao về bộ máy cầm quyền hay cho thần linh, tôn giáo, con người không có vai trò gì đáng kể trong cuộc khám phá vĩ đại của nhân loại. Lịch sử của châu Âu là lịch sử của sự khẳng định con người, cá nhân với dấu ấn mạnh mẽ của nó, từ suối nguồn của văn minh Hy Lạp: “Các dân tộc khác làm ra thần thánh, vua chúa và ma quỷ. Chỉ có dân tộc Hy Lạp làm ra con người” (W. Jaeger), đặt con người vào vị trí trung tâm.
Nói đến đại học Trung cổ không thể không nói đến cuộc dịch thuật vĩ đại cùng thời kỳ để chuyển ngữ sang tiếng La tinh những tác phẩm kinh điển của các học giả Hy Lạp như Aristote, Euclid, Hippocrates, Galen, Ptolemy và của một số học giả Ả rập như Alhazen (Quang học), al-Khawarizmi (Đại số). Cuộc dịch thuật này ảnh hưởng quyết định đến đời sống trí thức châu Âu trong việc hình thành một thế giới quan đầy tính lý tính, lô gích, khoa học xem thế giới là một cỗ máy được tổ chức tinh vi nhưng có thể hiểu được, từ các hành tinh đến con người, động vật, vật chất vô sinh, thể hiện tiếp truyền thống của Khai minh Ionia.
Tại Trung Hoa, cùng lúc, phong trào học thuật sống dậy cũng vào thế kỷ 12, với chủ nghĩa Tân-Khổng giáo, Chu Hy, người tiêu chuẩn hoá các bộ sách Tứ thư, Ngũ kinh dùng cho các kỳ thi hoàng gia chọn nhân tài phục vụ bộ máy nhà nước và tồn tại cho đến thế kỷ 20. Nhưng nền học thuật Trung Hoa thiếu các hạt giống khoa học, triết học của Hy Lạp và phương Tây. Khổng giáo không quan tâm đến khoa học, chỉ quan tâm đến đạo đức và nhân văn.
Cuối thế kỷ 15, châu Âu hầu hết được bao phủ bởi một mạng lưới đại học đáng kể, ước tính có khoảng trên 80 đại học mà phần lớn vẫn còn tồn tại hôm nay. Anh quốc, ngoài Oxford, Cambridge có thêm các đại học Glasgow, St. Andrew, Aberdeen. Bắc Âu có Kopenhagen, Uppsala. Pháp, Đức, Ý, Tây Ban Nha có rất nhiều đại học. Trong thời gian 1350-1500 có khoảng 750.000 người đã ghi danh, một con số rất ấn tượng trong thời bấy giờ.
Nhưng khi cuộc cách mạng khoa học thế kỷ 17 diễn ra thì đại học chưa phải là cái nôi của khoa học, một sự “trớ trêu” của lịch sử! Khoa học mới, nảy mầm từ thực nghiệm, được tiến hành dưới dự bảo trợ của các mạnh thường quân, hay của các đại danh tại các lãnh địa, nhưng không diễn ra trong khuôn viên đại học. Vì sao? Bởi vì đại học lúc bấy giờ còn bị chiếm lĩnh bởi tinh thần kinh viện giáo điều và xem thường thực nghiệm (experiment). Muốn cho khoa học tiến vào đại học, châu Âu phải cần có một cuộc cách mạng tiếp nối. Đó là cuộc cách mạng của đại học Đức theo tinh thần của Wilhelm von Humboldt vào đầu thế kỷ 19.
Đại học Humboldt
Nếu với sự ra đời của đại học Trung cổ, học thuật được thể chế hoá, tạo ra cái nhà của minh triết thì 6 thế kỷ sau, với sự ra đời của đại học Đức theo tinh thần Humboldt, khoa học được thể chế hoá rộng rãi ở một cấp bậc cao. Thể chế hoá học thuật là đặc thù của châu Âu, mà các nền văn minh khác, như Islam hay Trung Hoa, tuy từng có những tiến bộ lớn hơn, nhưng lại không có.
Đại học Berlin, tức Đại học Humboldt sau này, được thành lập năm 1810, có thể được tóm tắt như sau: «Đó là một thể chế trong đó những người giảng dạy và người đi học qui tụ lại như những người nghiên cứu bình đẳng trong sự thống nhất của nghiên cứu và giảng dạy để truy tìm khoa học thuần túy trong sự cô đơn và tự do, và qua quá trình này đạt tới sự hoàn thiện về tinh thần và đạo đức.» (Werry) Hai cột trụ chính của các nguyên lý là nghiên cứu và tự do hàn lâm, bao hàm tự do dạy và tự do học. Khoa học trở thành hình thức của cuộc sống, triết lý sống (Wissenschaft als Lebensform) và là nòng cốt của giáo dục (Bildung durch Wissenschaft).
Với Wilhelm von Humboldt, đại học trở thành đại học của khoa học, văn hóa, của sự tự rèn luyện toàn diện nhân cách con người, do đó có mang tính đạo đức, nhân văn và là hạt giống trí tuệ của quốc gia. Đại học sẽ làm cho con người thành những chủ thể nhân văn, và thông qua họ, làm cho bộ máy nhà nước nhân văn và khai sáng. Đại học Berlin, cùng với cuộc cải cách giáo dục phổ thông của Humboldt, mang sứ mệnh làm chuyển đổi cả một nhà nước cũ kỹ vừa bị quân đội của Napoleon đánh sập thành một nhà nước hiện đại để vực dậy đất nước, “lấy sức mạnh tinh thần để bù đắp những mất mát vật chất”. Humboldt là người đã nhìn thấy xa các yêu cầu tối thượng của cuộc canh tân đất nước, và Đại học Humboldt chính là đại học trồng người, và là nguồn nguyên khí quốc gia cho mục tiêu đó.
Đại học Berlin ra đời không phải từ ý tưởng của giới quản lý giáo dục, hay chính trị, mà từ những ý tưởng của giới văn chương và triết học duy tâm Đức. Một sự liên minh giữa triết học, khoa học và văn hoá diễn ra. Nhà triết học cũng là nhà khoa học và văn hoá. Nhà văn hoá cũng là nhà triết học và khoa học. Nhà khoa học cũng là nhà triết học và văn hoá. Tinh thần triết học và nhân văn này vẫn tiếp tục tồn tại lâu dài ở những nhà khoa học sau khi khoa học tự nhiên thực nghiệm đã thắng thế.
Đại học Humboldt đã khơi đúng mạch tri thức của thời đại tích tụ từ thời Kepler, Galilei, Descartes và Newton, và dần dần trở thành bà mẹ, alma mater, của đại học hiện đại thế giới. Bên kia bờ Đại tây dương, dưới ảnh hưởng mạnh mẽ của đại học Đức, nước Mỹ tiến hành cuộc cách mạng giáo dục đại học trong những năm của nửa sau thế kỷ 19, với những con người đã từng học tại các đại học Đức. Khoa học bước vào giai đoạn phát triển rực rỡ và vũ bão trên toàn thế giới.
Ai trị vì thế giới?
Chúng ta vừa điểm qua lịch sử hình thành của khoa học và đại học. Thế kỷ giữa 19 và 20 là thế kỷ thế giới biến đổi sâu xa và cơ bản nhất, hơn bất kỳ thế kỷ nào trước đó. Tất cả những biến đổi đó, như Stephen Hawking nhận xét, “không phải do những học thuyết chính trị hay kinh tế mới nào, mà do những sự phát triển kỹ thuật bão táp được tạo điều kiện bởi những tiến bộ trong nghiên cứu cơ bản” gây ra.
Các cuộc cách mạng khoa học không ngừng rút ngắn khoảng đường tác động vào đời sống kinh tế, ngày càng có ảnh hưởng trực tiếp hơn. Những quốc gia phát triển đi tìm sự phồn vinh của mình từ những tiến bộ khoa học kỹ thuật cao cấp cho nên đầu tư rất lớn vào đó, vào chính sách giáo dục toàn dân, truyền bá khoa học đại chúng, xây dựng cơ sở hạ tầng tri thức, đại học, thư viện, cơ sở nghiên cứu, con người. Đây là một cuộc chạy đua mạnh mẽ toàn cầu. Xã hội cũng như kinh tế đều lấy tri thức làm gốc.
Tôi xin mượn những lời sau đây của nhà toán học và triết học Anh nửa đầu thế kỷ 20 Alfred North Whitehead nói về ảnh hưởng của khoa học trong lịch sử nhân loại. Ông viết:
Những người chinh phục vĩ đại, từ Alexander đến Caesar, và từ Caesar đến Napoleon, ảnh hưởng sâu sắc cuộc sống của các thế hệ sau. Nhưng tổng hiệu quả của ảnh hưởng này rút lại trở thành tầm thường nếu so sánh với toàn bộ sự biến đổi của thói quen và tâm tính con người gây ra dài hạn bởi một chuỗi dài những con người của tư duy từ Thales đến ngày hôm nay, những người xét về cá nhân không có quyền lực gì, nhưng tối hậu lại chính là những người trị vì thế giới.
Khoa học vào phương Đông
Còn phương Đông thì sao? Văn minh của Đông và Tây đã khá sớm mang đậm những nét đặc thù của sự phân kỳ (divergence, chia tay) Hai lối tư duy trong học thuật của Đông Tây hình thành cùng thời kỳ, giai đoạn Hy Lạp hoá (Hellenistic) ở phương Tây, và giai đoạn nhà Hán ở phương Đông, khoảng hai thế kỷ trước và sau Công Nguyên nhưng rất khác nhau (hai giai đoạn đều bắt đầu bằng chữ H !). Một bên cái học chuộng triết học, biện chứng, y khoa, các khoa học toán như số học, hình học, thiên văn, tĩnh học; một bên sự học Khổng giáo được nâng lên thành giá trị cao nhất, y khoa và toán học chiếm hàng thứ yếu. Trong khi cái học của phương Tây mang đậm tính chất hùng biện và lô gích, phân tích và tranh luận để tìm cái mới, thì cái học của Trung Hoa đậm nét của sự học tư liệu, từ chương, trả bài, theo chính thống. Có lẽ khẩu hiệu của Plato trước hàn lâm viện ông “Ai không thành thạo hình học thì đừng vào đây” minh hoạ tinh thần học thuật đượm nét khoa học cao độ của học thuật phương Tây. Cũng chưa ở đâu trên thế giới xuất hiện một loạt đông đảo các nhà khoa học trí thức như ở Hy Lạp: Thales, Pythagoras, Zeno, Democritos, Hippocrates, Plato, Aristote, Euclid, Aristarchos, Archimedes, Ptolemy và còn nhiều người nữa. Galilei đã từng xem Archimedes là thầy của mình, và ngược lại ông cũng được xem là một Archimedes của thời cận đại.
Chúng ta cần nhìn vào phản ứng của hai quốc gia Trung Hoa và Nhật Bản để thấy sự khác biệt cơ bản khi khoa học truyền bá vào. Khoa học phương Tây được truyền vào Trung Hoa khá sớm, từ thế kỷ 17, theo chân các cha Dòng Tên. Nhưng vua quan Trung Hoa nhất định không muốn chấp nhận sự ưu việt của khoa học phương Tây, mà chỉ muốn tự hào về sự ưu việt của di sản văn hoá đồ sộ mình. Họ dùng âm dương, ngũ hành, kinh dịch để lý giải mọi việc trên đời, từ khoa học, y học đến đời sống, tương lai, vận mệnh con người và xã hội. Họ tìm cách qui chiếu tất cả khoa học hiện đại phương Tây về khoa học cổ truyền Trung Hoa, và cho rằng khoa học phương Tây đã có gốc rễ trong di sản khoa học Trung Hoa rồi. Họ chỉ xem phương Tây có công nghệ, kỹ thuật hữu dụng thôi, điều đó họ cần học để làm lịch, chế tạo súng đạn và tàu chiến, và chỉ thế thôi. Khẩu hiệu "Trung học vi thể, Tây học vi dụng" (Sự học Trung Hoa phục vụ cái căn bản, Sự nghiên cứu phương Tây phục vụ cái hữu dụng) của Trương Chi Đông (Zhang Zhidong), 1898, diễn tả thái độ nói trên. Cuối thế kỷ 18, đầu 19, vua Càn Long cũng từ chối bang giao thương mại với phương Tây, thực tế họ cũng đang xuất khẩu nhiều hàng hoá sang phương Tây. Nhưng họ không biết rằng Anh quốc lúc đó, với sức mạnh vô địch của cuộc cách mạng công nghiệp thế kỷ 18, đang làm bá chủ trên biển và đang trở thành một ‘đế chế mặt trời không bao giờ lặn”. Trung Hoa thật sự đang chết lâm sàng mà không hay.
Còn Nhật Bản thì sao? Họ tự hào là con cháu của nữ thần mặt trời, không bao giờ tha thứ cho kẻ lạ mặt đặt chân lên đất nước họ. Khoa học phương Tây cũng được truyền vào đất nước này khá sớm. Chỉ vài năm sau khi Copernicus xuất bản tác phẩm Chuyển động quay ở châu Âu thì những vị truyền giáo phương Tây cũng đã có mặt ở Nhật Bản mang theo những kiến thức khoa học và y khoa. Nhưng Nhật Bản đã đóng cửa, đuổi hết họ, cũng như Việt Nam, để bảo vệ truyền thống văn hoá của mình, nhưng vẫn còn chừa một cửa ngõ thông thương và thông tin tại cảng Nagasaki với quốc gia duy nhất là Hà Lan để nghe ngóng tình hình thế giới.
Mãi cho đến năm 1853 khi những chiếc tàu đen của Commodore Perry bắn vào Tokyo để buộc mở cửa thông thương thì giai cấp cầm quyền Nhật Bản là giai cấp samurai tỉnh ngộ. Họ nhanh chóng mở cửa và cải cách toàn diện: chính trị, kinh tế, thương mại, khoa học, giáo dục và quân sự. Họ đi tìm khai sáng ở phương Tây. Họ thuê cả mấy ngàn chuyên gia nước ngoài về làm việc tại Nhật Bản để tư vấn họ, rất khẩn trương để khỏi bị phương Tây nuốt chửng. Và chỉ khoảng 30 năm sau Minh Trị Duy Tân 1868, họ đã chiến thắng vang dội nhà Thanh trong cuộc chiến tranh Nhật-Thanh 1894-95. Mười năm sau, họ đánh thắng luôn quân đội Nga hoàng. Các samurai đã liên tiếp quật ngã những người khổng lồ, cho thấy sức mạnh vô địch của cuộc cải cách theo mô hình phương Tây. Họ có thể tự hào là dân tộc đầu tiên đã mang ánh sáng khoa học và văn minh phương Tây về châu Á.
Vì sao Nhật Bản thành công thần tốc như thế? Hãy nhìn vào văn hoá đọc sách của họ. Họ là một dân tộc cực kỳ năng động và tò mò. Những cuốn sách, như Bàn về tự do, Tự-lo, bán ở phương Tây vài trăm ngàn bản, khi được dịch sang tiếng Nhật thời Minh Trị Duy Tân bán lên cả triệu bản; hay như những quyển sách được biên soạn của nhà khai sáng Fukuzawa Yukichi. Người Nhật mê cuồng đọc sách thời mở cửa. Tại sao? Nhật Bản cũng là quốc gia theo Khổng giáo như Việt Nam và Hàn Quốc. Nhưng nhìn sâu hơn, họ là dân tộc có văn hoá đọc và giáo dục đã phát triển mạnh mẽ ngay trong thời đóng cửa Tokugawa 1600-1868. Cuối thời này, Nhật Bản là quốc gia đầy ắp sách vở và trường học. Một đánh giá thô ước tính rằng vào thời điểm Minh Trị, 40-50% tất cả con trai Nhật, và 15% con gái Nhật đều có qua trường lớp ngoài gia đình. (Việt Nam lúc đó còn mù chữ phổ biến) Điều này gợi ra rằng mức độ biết chữ của Nhật Bản lớn hơn tất cả những quốc gia phương Tây có cùng sự phát triển kinh tế. Một người Pháp viết năm 1877 rằng “giáo dục sơ cấp ở Nhật Bản đã đạt đến mức độ làm cho chúng ta xấu hổ…Không có làng nào mà không có trường học, hầu như không có người nào không biết đọc…”
Trong hơn hai thế kỷ rưỡi đóng cửa được canh gác chặt chẽ, trí thức Nhật đã làm nên một cuộc dịch thuật khoa học vĩ đại từ sách vở Hà Lan để hiểu cuộc cách mạng khoa học, công nghệ diễn ra ở châu Âu. Cuộc dịch thuật khó nhọc và không kém phần nguy hiểm, đôi khi phải trả giá bằng tính mạng, nhưng trí thức Nhật đã thể hiện tinh thần trách nhiệm cao cả của mình đối với quốc gia, rằng họ không thể yêu nước trong sự vô minh. Cuộc dịch thuật này góp phần thay đổi hệ hình tư duy truyền thống của Nhật Bản nhanh chóng trong thời Minh Trị. Đọc sách là việc làm của lòng yêu nước, nhất là của giới tinh hoa cầm quyền samurai, không phải chỉ để thưởng ngoạn, mà để khai minh, khai trí và để khai sinh một thời đại mới cho đất nước. Đọc sách là thuộc tính của một dân tộc văn hoá có ý thức. Họ không sợ học của kẻ thù, chỉ sợ ngu muội vì không học. Một ngàn năm trước họ đã học Trung Hoa. Một ngàn năm sau họ học phương Tây. Họ không sợ mất mặt. Và họ đã thành công. Cả thế giới kính nể.
Chúng ta, những người Việt Nam, có một món nợ rất lớn đối với lịch sử: đó là thiếu ý thức và hiểu biết đầy đủ về sức mạnh của khoa học, công nghệ, của giáo dục, và các thể chế cần thiết trong việc xây dựng một đất nước phú cường. Vì thế tôi càng đánh giá cao việc trường Đại học Hoa Sen năm nay có lẽ lần đầu tiên tại Việt Nam có một giáo trình Lịch sử tư duy khoa học thế giới, do thầy Hoàng Anh Tuấn Kiệt phụ trách. Tôi xin nhiệt liệt giới thiệu các bạn trẻ.
Lý tưởng Tuổi trẻ
Các bạn sinh viên và anh chị quý mến,
Chúng ta vừa làm một cuộc hành trình về lịch sử của khoa học, đại học và của ý nghĩa chúng. Sau cùng, tôi xin mượn mấy lời tâm huyết sau đây của Abraham Lincoln trong bài diễn thuyết trước học sinh trường trung học Springfield bang Illinois năm 1838, để nói với các bạn trẻ như những lời kết cho buổi nói chuyện hôm nay. Abraham Lincoln nói, những cánh đồng vinh quang của quá khứ đã được thu hoạch và sử dụng rồi, nhưng những người thu hoạch mới chắc chắn sẽ xuất hiện, do đó họ phải tìm cho mình một cánh đồng mới và gieo trồng lấy. Họ có thể tìm lấy vinh quang bằng cách hỗ trợ và gìn giữ một lâu đài được xây nên bởi người khác chăng? Chắc không. Có nhiều người đầy đủ tài giỏi để thực hiện những nhiệm vụ của mình nhưng không khao khát gì xa hơn mấy chiếc ghế trong Quốc hội, hay trong chính phủ. Nhưng những người đó không thuộc về dòng sư tử, hay họ đại bàng. Sao, các bạn nghĩ những vị trí đó sẽ thoả mãn một Alexander, một Ceasar, hay Napoleon chăng? Không bao giờ. Thiên tài cao ngất xem thường lối mòn đã đi. Họ tìm những vùng đất chưa bao giờ khai phá. Họ không tìm sự khác biệt trong việc thêm bớt một hai chi tiết ở những tượng đài của sự nổi tiếng được dựng lên trong ký ức của những người khác. Họ từ chối cho rằng phục vụ một người chủ là đủ vinh quang. Họ ghét bước theo dấu chân của bất cứ ai khác, dù nổi tiếng đến đâu. Họ khao khát cháy bỏng sự khác biệt.
Những trang lịch sử oai hùng rồi đây cũng sẽ đi qua, phai nhạt trong ký ức. Chúng là tiền đồn của sức mạnh, nhưng cái mà một kẻ thù xâm lược không làm được, thì trọng pháo của thời gian có thể làm được: đó là sự im bặt. Đó là một cánh rừng của những cây sồi, nhưng trận cuồng phong không gì cưỡng lại được tràn qua, chỉ để lại đó đây những thân cây trợ trụi không còn màu xanh của sự sống, chẳng còn một bóng mát, chỉ còn thì thầm trong vài cơn gió nhẹ, chiến đấu với những cành nhánh đã bị què quặt, và chỉ chờ vài trận bảo lớn nữa để chìm đi vĩnh viễn.
Chúng là những cột trụ của lâu đài độc lập, tự do, Abraham Lincoln nói tiếp. Chúng đang bị vỡ đi, toà lâu đài sẽ có nguy cơ sụp đổ, trừ khi chúng ta, những kẻ hậu sinh, cung cấp những cột trụ mới, nhưng lấy từ đâu?, - từ những tảng đá rắn chắt của lý trí tỉnh táo. Sự cuồng nhiệt (passion) đã giúp chúng ta một thời, nhưng có thể nguy hiểm trong tương lai. Lý tính (reason), lý tính tỉnh táo, được suy tính và không cuồng nhiệt, sẽ cung cấp cho chúng ta các chất liệu cho sự hỗ trợ và bảo vệ tương lai. Hãy để các chất liệu ấy hun đúc thành trí khôn đầy đủ và đạo lý trong sáng trước tình yêu và sự kính trọng những quyền lợi tối thượng của tổ quốc. Chúng ta không cho phép các đôi chân thù địch giẫm lên hay báng bổ chỗ an nghỉ thiêng liêng của những anh hùng liệt sĩ dân tộc, hay đánh thức họ dậy.
Các bạn trẻ thân mến, đó là những lời của Abraham Lincoln về Hoa Kỳ mà tôi đã kết lại cho chúng ta, những người Việt Nam hôm nay. Ông viết những dòng hùng hồn trên về lý tưởng tuổi trẻ lúc chỉ mới 28 tuổi, không lớn hơn các bạn hôm nay bao nhiêu. Tuyệt vời và truyền cảm mạnh mẽ phải không? Thực tế, Abraham Lincoln đã sống đúng với những gì ông đã viết, và ông là một cột trụ không lay chuyển được của lịch sử Hoa Kỳ.
Các bạn sinh viên trẻ quý mến, các bạn hãy chứng tỏ rằng tương lai đất nước này thuộc về các bạn, rằng các bạn sẽ cung cấp cho đất nước này mỗi người mỗi cách những cột trụ vững chắc mới để chống đỡ, thì đất nước mới được vững bền!
Xin chúc các bạn trẻ hãy gìn giữ lý tưởng cho đường xa. Không phải “lấy ngắn nuôi dài” như người ta thường nói về cách làm ăn của những người nghèo, điều đó thông cảm, mà ngược lại “lấy dài, lấy lý tưởng vô hạn của các bạn, để nuôi dưỡng các bước chân hữu hạn trên đường xa” của những người giàu, rất giàu lý tưởng, để chúng ta trở lại những ý tưởng cao cả ban đầu của nhà thơ Rumi!
Xin cám ơn tất cả các bạn.
TP Hồ Chí Minh, 5 tháng 10 năm 2012
Nguyễn Xuân Xanh
0 nhận xét:
Đăng nhận xét