Bài 96
Dự Nhượng kiều chuỷ thủ hành
豫讓橋匕首行 | Dự Nhượng kiều chuỷ thủ hành |
晉陽城外滔滔水 | Tấn Dương 1 thành ngoại thao thao thuỷ |
智伯漆頭為溺器 | Trí Bá 2 tất đầu vi niệu khí |
無人報仇誠可悲 | Vô nhân báo cừu thành khả bi |
其臣豫讓身當之 | Kì thần Dự Nhượng thân đương chi |
漆身為癩剔鬚眉 | Tất thân vi lại dịch tu mi |
當道乞食妻不知 | Đương đạo khất thực thê bất tri |
身挾匕首伏橋下 | Thân hiệp chuỷ thủ phục kiều hạ |
怒視仇腹甘如飴 | Nộ thị cừu phúc cam như di |
殺氣凜凜不可近 | Sát khí lẫm lẫm bất khả cận |
白日無光霜雪飛 | Bạch nhật vô quang sương tuyết phi |
再擭再舍心不移 | Tái hoạch tái xả tâm bất di |
臨死猶能三擊衣 | Lâm tử do năng tam kích y |
凌凌奇氣千霄上 | Lăng lăng kì khí thiên tiêu thượng |
自此橋名更豫讓 | Tự thử kiều danh canh Dự Nhượng |
君臣大義最分明 | Quân thần đại nghĩa tối phân minh |
國士眾人各易尙 | Quốc sĩ 3 chúng nhân các dị thượng |
愧剎人臣懷二心 | Quý sát nhân thần hoài nhị tâm |
千古聞之色惆悵 | Thiên cổ văn chi sắc trù trướng |
不是荊軻聶政徒 | Bất thị Kinh Kha 4 Nhiếp Chính 5 đồ |
甘人豢養輕其軀 | Cam nhân hoạn dưỡng khinh kì khu |
血氣之勇不足道 | Huyết khí chi dũng bất túc đạo |
君獨錚錚鐵丈夫 | Quân độc tranh tranh thiết trượng phu |
路經三晉皆丘土 | Lộ kinh Tam Tấn 6 giai khâu thổ |
注目橋邊如有睹 | Chú mục kiều biên như hữu đổ |
西風凄凄寒逼人 | Tây phong thê thê hàn bức nhân |
征馬頻頻驚失路 | Chinh mã tần tần kinh thất lộ |
匕首當時七寸長 | Chuỷ thủ đương thì thất thốn trường |
獨有萬丈光茫亙今古 | Độc hữu vạn trượng quang mang cắng kim cổ. |
Dịch nghĩa: Bài hành về chiếc gươm ngắn của Dự Nhượng
Ngoài thành Tấn Dương nước chảy cuồn cuộn
Đầu Trí Bá bị bôi sơn làm chậu đựng nước tiểu
Không ai báo thù, thật đáng thương
Bề tôi là Dự Nhượng đem thân gánh vác việc ấy
Sơn mình làm người hủi, cạo râu mày
Giữa đường ăn xin mà vợ không nhận ra
Mình mang gươm ngắn nấp dưới cầu
Giận nhìn bụng kẻ thù (muốn đâm) ngon như ăn đường
Đằng đằng sát khí không ai dám lại gần
Giữa ban ngày mà như không có ánh sáng, như có sương tuyết bay
Bị bắt, được tha, lại bị bắt, lại được tha mấy lần, lòng không đổi
Đến lúc chết còn đánh được ba lần vào áo Tương Tử
Khí lạ cao ngất ngút tận trời cao
Từ đó cầu mang tên cầu Dự Nhượng
Nghĩa lớn vua tôi cực rõ ràng
Giữa kẻ quốc sĩ và người thường, cách đối sử khác nhau
Bề tôi mà hai lòng thật đáng hổ thẹn đến chết
Nghìn xưa nghe chuyện ai cũng ngậm ngùi
Không như Kinh Kha, Nhiếp Chính
Cam chịu để cho người nuôi dưỡng mà coi nhẹ thân mình
Cái dũng khí của máu huyết họ không phải nói nhiều
Riêng có ông (Dự Nhượng) là bậc trượng phu cứng cỏi như thép
Đường qua Tam Tấn đều là gò bãi
Chăm chú nhìn bên cầu dường như có bóng ông
Gió tây lạnh buốt tê cóng người
Ngựa chiến nhiều lần hí lên sợ lạc đường
Chiếc gươm ngắn thời đó dài bảy tấc
Riêng có tia sáng dài muôn trượng rọi thấu cổ kim.
Đầu Trí Bá bị bôi sơn làm chậu đựng nước tiểu
Không ai báo thù, thật đáng thương
Bề tôi là Dự Nhượng đem thân gánh vác việc ấy
Sơn mình làm người hủi, cạo râu mày
Giữa đường ăn xin mà vợ không nhận ra
Mình mang gươm ngắn nấp dưới cầu
Giận nhìn bụng kẻ thù (muốn đâm) ngon như ăn đường
Đằng đằng sát khí không ai dám lại gần
Giữa ban ngày mà như không có ánh sáng, như có sương tuyết bay
Bị bắt, được tha, lại bị bắt, lại được tha mấy lần, lòng không đổi
Đến lúc chết còn đánh được ba lần vào áo Tương Tử
Khí lạ cao ngất ngút tận trời cao
Từ đó cầu mang tên cầu Dự Nhượng
Nghĩa lớn vua tôi cực rõ ràng
Giữa kẻ quốc sĩ và người thường, cách đối sử khác nhau
Bề tôi mà hai lòng thật đáng hổ thẹn đến chết
Nghìn xưa nghe chuyện ai cũng ngậm ngùi
Không như Kinh Kha, Nhiếp Chính
Cam chịu để cho người nuôi dưỡng mà coi nhẹ thân mình
Cái dũng khí của máu huyết họ không phải nói nhiều
Riêng có ông (Dự Nhượng) là bậc trượng phu cứng cỏi như thép
Đường qua Tam Tấn đều là gò bãi
Chăm chú nhìn bên cầu dường như có bóng ông
Gió tây lạnh buốt tê cóng người
Ngựa chiến nhiều lần hí lên sợ lạc đường
Chiếc gươm ngắn thời đó dài bảy tấc
Riêng có tia sáng dài muôn trượng rọi thấu cổ kim.
Dịch thơ: Bài hành về chiếc gươm ngắn của Dự Nhượng
Ngoài thành Tấn Dương nước cuộn chảy
Đầu Trí bá sơn đựng nước giải
Không kẻ báo thù thật đáng thương
Bề tôi Dự Nhượng thân vậy đấy
Bôi trát thân mình khác tóc râu
Giữa đường xin ăn vợ không biết
Mình dắt dao găm phục dưới cầu
Nhìn thấy kẻ thù giận muốn nuốt
Đắng đắng sát khí ai cũng hốt
Đầy trời mù mịt sương tuyết bay
Bắt đi bắt lại lòng vẫn quyết
Ba lần đánh áo mới chịu chết
Khí lạ hướng trời cao bay vút
Dự Nhượng từ đó thành tên cầu
Nghĩa lớn vua tôi càng trong suốt
Quốc sĩ, người thường vốn khác nhau
Bề tôi hai lòng thẹn đến chết
Nghe chuyện nghìn xưa lòng ngậm ngùi
Không như Kinh Kha và Nhiếp Chính
Cam nhận người nuôi nhẹ thân mình
Máu huyết dũng khí ai dám sánh
Trượng phu Dự Nhượng thật khác thường
Đường qua Tam Tần toàn gò bãi
Dường như bên cầu có bóng ông
Gió tây lạnh buốt người tê cóng
Ngựa chiến nhiều phen hãi lạc đường
Bẩy tấc ngày xưa chiếc gươm ngắn
Muôn trượng tia sáng soi cổ kim.
Đỗ Đình Tuân
(dịch thơ)
Chú thích:
*Dự Nhượng: Dự Nhượng 豫讓, theo Sử ký Tư Mã Thiên , người nước Tấn, là bầy tôi Trí Bá 智伯, được Trí Bá rất kính yêu. Trí Bá đánh thua Triệu Tương Tử 趙襄子, bị Tương Tử cho sơn xương sọ dùng làm tô đựng rượu (có thuyết nói dùng đựng nước tiểu). Dự Nhượng hết lòng rửa nhục cho Trí Bá. Có lần giả làm tù nhân vào cung sửa nhà xí, dắt sẵn cây chuỷ thủ, định giết Tương Tử, không thành công. Tương Tử tha cho, coi Dự Nhượng là người hiền trong thiên hạ. Ít lâu sau, Dự Nhượng bôi sơn vào mình, làm như người hủi, nuốt than cho mất tiếng. Ăn mày ở chợ, mà vợ không nhận ra. Có người bạn nhận ra, khóc nói: "Có tài như anh, kiếm cách mua chuộc về thờ Tương Tử, tất được thân yêu. Bấy giờ thực hành ý muốn, há chẳng dễ ư ?". Dự Nhượng đáp: "Đã đem thân về thờ người ta, mà lại chực giết, như thế là nhị tâm.Tôi làm như vậy là để cho thiên hạ đời sau kẻ nào làm tôi mà thờ chủ không một dạ coi đấy mà xấu hổ". Dự Nhượng nấp dưới một cây cầu, chờ giết Tương Tử. Lại thất bại, trước khi kề gươm vào cổ tự vẫn, Dự Nhượng xin đâm ba lần vào áo Tương Tử để bầy tỏ ý chí báo thù. Được tin, các chí sĩ nước Triệu đều sa lệ. (Sử ký Tư Mã Thiên, Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê dịch, Lá Bối xuất bản, Saigon, Việt nam, 1972, trang 520-524).
1.Tấn Dương: Đất Chu Thành Vương 周成王 phong cho em, sau đổi thành nước Tấn (nay thuộc tỉnh Sơn Tây 山西).
2.Trí Bá: Tức Trí Dao, một trong sáu quan khanh của nước Tấn, thời Tấn Xuất Công.
3. Quốc sĩ: Dự Nhượng nói với Tương Tử 襄子: "Tôi đã làm tôi cho họ Phạm 范 và họ Trung Hàng 中行. Họ Phạm và họ Trung Hàng đãi tôi như người thường nên tôi báo đáp theo lối thường. Trí Bá đãi tôi như quốc sĩ nên tôi báo đáp theo tư cách quốc sĩ"
4.Kinh Kha: Là thích khách giúp Thái Tử Đan 丹 nước Yên 燕 giết Tần Thuỷ Hoàng 秦始皇 nhưng không thành công.
5. Nhiếp Chính: Là thích khách giúp Nghiêm Trọng Tử 嚴仲子 nước Tề giết tể tướng nước Hàn 韓 là Hiệp Luỹ 俠累.
6 Tam Tấn:. Ba nước Triệu, Hàn, Ngụy.
2.Trí Bá: Tức Trí Dao, một trong sáu quan khanh của nước Tấn, thời Tấn Xuất Công.
3. Quốc sĩ: Dự Nhượng nói với Tương Tử 襄子: "Tôi đã làm tôi cho họ Phạm 范 và họ Trung Hàng 中行. Họ Phạm và họ Trung Hàng đãi tôi như người thường nên tôi báo đáp theo lối thường. Trí Bá đãi tôi như quốc sĩ nên tôi báo đáp theo tư cách quốc sĩ"
4.Kinh Kha: Là thích khách giúp Thái Tử Đan 丹 nước Yên 燕 giết Tần Thuỷ Hoàng 秦始皇 nhưng không thành công.
5. Nhiếp Chính: Là thích khách giúp Nghiêm Trọng Tử 嚴仲子 nước Tề giết tể tướng nước Hàn 韓 là Hiệp Luỹ 俠累.
6 Tam Tấn:. Ba nước Triệu, Hàn, Ngụy.
25/7/2014
Đỗ Đình Tuân
0 nhận xét:
Đăng nhận xét