Đại sứ Việt Nam tại Mông Cổ Phan Đăng Đương trả lời phỏng vấn VOV: Mông Cổ có thể là miền đất hứa cho lao động và du khách Việt Nam

.
 Motthoimongolia: Đại sứ Việt Nam tại Mông Cổ Phan Đăng Đương trả lời phỏng vấn nhân dịp kỷ niệm 60 năm hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao. Toàn văn như sau.
PV: Thưa Đại sứ, năm nay là năm kỷ niệm 60 năm thiết lập quan ngoại giao giữa Việt Nam-Mông Cổ. Xin ông cho biết đã có những bước phát triển mới nào trong quan hệ hợp tác Việt Nam-Mông Cổ hiện nay?
Đại sứ Phan Đăng Đương: Việt Nam và Mông Cổ chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao vào ngày 17/11/1954. Có thể nói rằng, trong 60 năm qua, mối quan hệ hữu nghị truyền thống giữa hai nước đã có bước phát triển rất tốt đẹp.

Giai đoạn từ 1954-1990 là giai đoạn quan hệ hai nước phát triển tốt đẹp trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục và đào tạo. Hai bên đã duy trì đều đặn các chuyến thăm cấp cao và các cấp, trong đó nổi bật nhất là các chuyến thăm hữu nghị chính thức Mông Cổ của Chủ tịch Hồ Chí Minh (9/1955), Thủ tướng Phạm Văn Đồng (6/1961), Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Trường Chinh (7/1984) và các chuyến thăm hữu nghị chính thức Việt Nam của Bí thư thứ nhất Đảng NDCM Mông Cổ, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Cedenbal (9/1959), Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng J.Batmonkho (12/1979).
Trong giai đoạn này, hai bên đã 2 lần ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác (1961, 1979); Chính phủ và nhân dân Mông Cổ đã dành cho nhân dân Việt Nam sự ủng hộ giúp đỡ chí tình cả về vật chất lẫn tinh thần trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam.
Trong giai đoạn từ 1990-1994, tình hình khu vực và thế giới thay đối đã ảnh hưởng đến quan hệ hai nước. Có thể nói, đây là giai đoạn khó khăn dẫn đến quan hệ hai nước bị gián đoạn.
Từ năm 1994 đến nay, sau giai đoạn khủng hoảng chính trị chung trong khu vực (1990-1994), quan hệ hai nước Việt Nam-Mông Cổ bắt đầu được phục hồi từ năm 1994. Tổng thống Mông Cổ P. Ochirbat đã thăm chính thức Việt Nam tháng 3/1994, hai bên ký Tuyên bố chung, nêu những nguyên tắc cơ bản cho quan hệ hai nước phù hợp với tình hình mới. Đặc biệt, trong chuyến thăm chính thức Mông Cổ tháng 4/2000 của Chủ tịch nước Việt Nam Trần Đức Lương, hai bên đã ký Hiệp ước Hữu nghị và hợp tác lần thứ 3, đưa quan hệ hai nước lên một tầng nấc mới.
Gần đây nhất, trong chuyến thăm Việt Nam tháng 11/2013 của Tổng thống Mông Cổ Ts. Elbegdorj, lãnh đạo hai nước đã khẳng định coi trọng và mong muốn tiếp tục tăng cường và củng cố quan hệ giữa hai nước trên tất cả các lĩnh vực, vì lợi ích của nhân dân mỗi nước, góp phần vào hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.
PV: Thưa Đại sứ, quan hệ kinh tế giữa Việt Nam-Mông Cổ theo như đánh giá thì phát triển chưa tương xứng với tiềm năng hiện có. Vậy, những vướng mắc nào cần được tháo gỡ?
Đại sứ Phan Đăng Đương: Trong thời gian qua, mặc dù có nhiều cố gắng, nhưng quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước Việt Nam-Mông Cổ vẫn ở mức rất khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng và quan hệ chính trị tốt đẹp giữa hai nước. Kim ngạch thương mại giữa hai nước hiện chỉ đạt khoảng 16-18 triệu USD/năm.
Tuy nhiên, Mông Cổ là thị trường nhỏ (3 triệu dân), giao thông vận tải khó khăn, chi phí vận tải lớn, doanh nghiệp hai nước còn thiếu thông tin về nhau, chưa có Hiệp định kiểm dịch động thực vật giữa hai nước ... là những nguyên nhân chính cản trở quan hệ kinh tế-thương mại Việt Nam-Mông Cổ.
Để khắc phục và tháo gỡ những khó khăn trên, mở đường cho quan hệ kinh tế-thương mại phát triển, theo tôi, cần tập trung vào thúc đẩy một số lĩnh vực.
Trước hết, hai bên cần kêu gọi các doanh nghiệp hai nước tích cực tìm hiểu thị trường của nhau thông qua việc trao đổi đoàn doanh nghiệp, tổ chức hội thảo, triển lãm thương mại, đầu tư... Hai bên cần đẩy nhanh việc ký Hiệp định kiểm dịch động thực vật, tạo điều kiện pháp lý thuận lợi cho việc trao đổi hàng nông sản, thực phẩm giữa hai nước
Tiếp đó, để tháo gỡ khó khăn về giao thông-vận tải, bên cạnh việc tiếp tục thúc đẩy ký các thỏa thuận hợp tác đường sắt 3 bên Việt Nam-Trung Quốc-Mông Cổ, ta cần tính đến việc xem xét khả năng mở đường bay thẳng Ulaanbaatar-Hà Nội hoặc Ulaanbaatar-TP. Hồ Chí Minh. Nếu điều này được thực hiện, hợp tác kinh tế, thương mại, du lịch chắc chắn sẽ có bước đột phá mới trong quan hệ hai nước.
Cuối cùng, để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và công dân hai nước đi lại thăm viếng lẫn nhau, thúc đẩy quan hệ hợp kinh tế, thương mại, tác du lịch phát triển, ta nên tính đến việc ký Hiệp định miễn thị thực cho công dân hai nước. 
PV: Việt Nam và Mông Cổ cần đẩy mạnh hợp tác ở những lĩnh vực cụ thể nào, theo quan điểm của ông?
Đại sứ Phan Đăng Đương: Tiềm năng hợp tác giữa hai nước rất lớn. Việt Nam có thế mạnh xuất khẩu các mặt hàng nông sản (gạo, cà phê, các loại hoa quả tươi), thủy sản và hàng may mặc... Với dân số 90 triệu dân và nhu cầu khám phá vẻ đẹp tự nhiên của thảo nguyên Mông Cổ, Việt Nam là thị trường du lịch tiềm năng của Mông Cổ. Ngược lại, do mùa đông lạnh lẽo và không có biển, người Mông Cổ cũng rất muốn sang du lịch Việt Nam để hưởng khí hậu ấp áp của biển. Mông Cổ có nhu cầu xuất khẩu các mặt hàng như thịt đông lạnh, sản phẩm lông da, than cốc...
Trên cơ sở của mối quan hệ hữu nghị, hợp tác truyền thống tốt đẹp giữa hai nước đã được thử thách trong 60 năm qua và tiềm năng hợp tác phong phú giữa hai nước, ta nên thúc đẩy hợp tác với Mông Cổ trên các lĩnh vực sau.
Thứ nhất, về chính trị, hai bên cần tiếp tục duy trì trao đổi đoàn cấp cao và các cấp để tăng cường sự tin cậy chính trị, chia sẻ kinh nghiệm; phối hợp chặt chẽ và tích cực ủng hộ lẫn nhau trên các diễn đàn khu vực và quốc tế, vì lợi ích của nhân dân hai nước.
Thứ hai, về kinh tế-thương mại, cần thúc đẩy hợp tác trên lĩnh vực nông nghiệp, cụ thể là lĩnh vực hợp tác sản xuất thuốc thú y. Hiện nay, Mông Cổ có đàn gia súc 60 triệu con, nhu cầu về thuốc thú y, vaccine là rất lớn, do vậy ta nên đầu tư khai thác thị trường 60 triệu gia súc này (được biết người Mông Cổ có tâm lý tin tưởng và ưu thích sử dụng thuốc của ta hơn của nước khác).
Bên cạnh đó, chúng ta cũng có thể thúc đẩy các thỏa thuận đã ký trước đây về hợp tác trong lĩnh vực tiêu thụ hàng nông sản, thực phẩm của nhau. Ngoài việc trao đổi các mặt hàng truyền thống hiện nay, ta cần tính tới việc thúc đẩy hợp tác với Mông Cổ trên lĩnh vực khai khoáng (một lĩnh vực đang phát triển mạnh nhất hiện nay tại Mông Cổ, chiếm tới 90% nguồn thu từ xuất khẩu).
Thứ ba, ta có thể thúc đẩy hợp tác với Mông Cổ trong các lĩnh vực du lịch, lao động, văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ thuật để khai thác lợi thế và tiềm năng giữa hai nước.
Cụ thể, trong việc hợp tác về lao động, với đặc điểm đất rộng người thưa, Mông Cổ hiện rất thiếu nguồn nhân lực như lao động lành nghề, kỹ thuật và cả lao động phổ thông để làm việc trong các lĩnh vực xây dựng hạ tầng, chế biến thực phẩm và  đặc biệt là trong lĩnh vực khai mỏ.
Hiện ta có khoảng 700 lao động đang sinh sống làm việc tại Mông Cổ, nhưng hầu như làm trong các xưởng sửa chữa ô tô. Do vậy việc Bộ Lao động hai nước xem xét khả năng ký Hiệp định hợp tác trong lĩnh vực lao động sẽ mở ra một cơ hội mới để đưa lao động của ta vào thị trường tiềm năng này.  
Tiếp theo, trong việc hợp tác về văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ thuật, trước năm 1990, quan hệ hợp tác giữa hai nước trên lĩnh vực này đã phát triển mạnh mẽ, góp phần quan trọng vào việc tăng cường sự hiểu biết và giúp đỡ lẫn nhau giữa nhân dân hai nước. Ngày nay, trên cơ sở quan hệ truyền thống tốt đẹp đó, hai bên cần tiếp tục duy trì và củng cố quan hệ thông qua các hoạt động cụ thể như: trao đổi các đoàn văn hóa, nghệ thuật; trao đổi sinh viên, cán bộ nghiên cứu của Viện Hàn lâm khoa học-xã hội, các trường đại học hai nước…
Ngoài ra, hai bên cũng cần thúc đẩy hợp tác giữa các cơ quan truyền thông hai nước (Đài phát thanh, vô tuyến truyền hình, báo chí), coi đây là một kênh quan trọng để giới thiệu, tuyên truyền về đất nước, con người… qua đó tăng cường sự hiểu biết, tin cậy giữa nhân dân hai nước.
PV: Để sự hợp tác đó có hiệu quả thiết thực thì giải pháp nào mà Đại sứ cho là quan trọng nhất trong bối cảnh hiện nay?
Đại sứ Phan Đăng Dương: Để việc hợp tác nêu trên có hiệu quả thiết thực, theo tôi, ta nên tiến hành đồng bộ các giải pháp, tuy nhiên cần tập trung vào các giải pháp chủ đạo sau.
Trước hết, hai nước cần duy trì thường xuyên các chuyến thăm cấp cao giữa các lãnh đạo để củng cố và tăng cường sự tin cậy chính trị. Khi đã có sự tin cậy lẫn nhau, làm việc gì cũng dễ.
Bên cạnh đó, chúng ta cần thúc đẩy việc xem xét mở đường bay trực tiếp Hà Nội-Ulaanbaatar hoặc TP. Hồ Chí Minh-Ulaanbaatar. Trong thời gian nghiên cứu tính khả thi của kế hoạch này, có thể mở các chuyến bay Chater.
Mặt khác, chũng ta cũng cần tạo điều kiện cho các bộ ngành hai bên triển khai việc ký kết các Hiệp định, Thỏa thuận tạo cơ sở pháp lý, khai thông cho hợp tác kinh tế, thương mại phát triển (như Hiệp định kiểm dịch động thực vật, Hiệp định hợp tác trong lĩnh vực ngân hàng, lao động…).
Cuối cùng, hai nước cần phải duy trì đều đặn các kỳ họp của Ủy ban Liên Chính phủ về hợp tác kinh tế, thương mại và khoa học kỹ thuật để xem xét, rà soát tất cả các lĩnh vực hợp tác đang triển khai, lĩnh vực nào không khả thì thì dừng lại, lĩnh vực nào có triển vọng thì cần thúc đẩy./.


Share on Google Plus

About Unknown

Bài viết này được chia sẻ bởi Unknown.
    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Đăng nhận xét