Dịch Bắc hành tạp lục: Bài 81




Bài 81
Trở binh hành
阻兵行
Trở binh hành
金鏘鏘鐵錚錚
Kim tương tương, thiết tranh tranh
車馬馳驟雞犬鳴
Xa mã trì sâu, kê khuyển minh
小戶不閉大戶閉
Tiểu hộ bất bế, đại hộ bế
扶老攜幼移入城
Phù lão huề ấu di nhập thành
本地六月至九月
Bản địa lục nguyệt chí cửu nguyệt
滑濬二縣齊稱兵
Hoạt, Tuấn nhị huyện tề xưng binh
賊殺官吏十八九
Tặc sát quan lại thập bát cửu
滿城西風吹血腥
Mãn thành tây phong xuy huyết tinh
更有山東直隸遙相應
Cánh hữu Sơn Đông, Trực Lệ dao tương ứng
白蓮異術多神靈
Bạch Liên 1 dị thuật đa thần linh
州官聞賊至
Châu quan văn tặc chí
挑燈終夜籍民丁
Khiêu đăng chung dạ tịch dân đinh
州弁聞賊至
Châu biền văn tặc chí
磨礪刀劍戛戛鳴
Ma lệ đao kiếm giát giát minh
州人聞賊至
Châu nhân văn tặc chí
三三五五交頭細語聲咿嚶
Tam tam ngũ ngũ giao đầu tế ngữ thanh y anh
行人遠來不解事
Hành nhân viễn lai bất giải sự
但聞城外進退皆炮聲
Đản văn thành ngoại tiến thoái giai pháo thanh
河南一路皆振動
Hà Nam nhất lộ giai chấn động
羽檄急發如飛星
Vũ hịch cấp phát như phi tinh
滾滾塵埃蔽天日
Cổn cổn trần ai tế thiên nhật
步騎一蹤復一橫
Bộ kỵ nhất tung phục nhất hoành
騎者彎角弓
Kỵ giả loan giác cung
長箭滿壺白羽翎
Trường tiễn mãn hồ bạch vũ linh
步者肩短槊
Bộ giả kiên đoản sáo
新磨鐵刃懸朱纓
Tân ma thiết nhận huyền chu anh
又有新點丁壯之兵器
Hựu hữu tân điểm đinh tráng chi binh khí
削竹為鎗皮上青
Tước trúc vi thương bì thượng thanh
大車載弓
Đại xa tải cung
小車裝尖釘
Tiểu xa trang tiêm đinh
終日往來無暫停
Chung nhật vãng lai vô tạm đình
數百里地遍戈甲
Sổ bách lý địa biến qua giáp
道路壅塞無人行
Đạo lộ ủng tắc vô nhân hành
長送長嘆短送默
Trường tống trường thán, đoản tống mặc
進退維谷難為情
Tiến thoái duy cốc nan vi tình
昨日黃河水大至
Tạc nhật Hoàng Hà thủy đại chí
五日無食棲沙汀
Ngũ nhật vô thực thê sa đinh
今日衛州阻盜賊
Kim nhật Vệ Châu trở đạo tặc
不知前路何時清
Bất tri tiền lộ hà thời thanh
安得風車日萬里
An đắc phong xa nhật vạn lý
飛身一息來天京
Phi thân nhất tức lai thiên kinh
吾聞內顧頻年苦荒旱
Ngô văn nội cố tần niên khổ hoang hạn
只有春作無秋成
Chỉ hữu xuân tác vô thu thành
湖南河南久無雨
Hồ Nam, Hà Nam cửu vô vũ
自春徂秋田不耕
Tự xuân tồ thu điền bất canh
大男小女頻饑色
Đại nam tiểu nữ tần cơ sắc
糠枇為食藜為羹
Khang tì vi thực lê vi canh
眼見饑莩死當道
Nhãn kiến cơ biểu tử đương đạo
懷中棗子身邊傾
Hoài trung táo tử thân biên khuynh
空屋壁上有查字
Không ốc bích thượng hữu "tra" tự 1
數百餘戶皆饑零
Sổ bách dư hộ giai cơ linh
小民不忍寒且饑
Tiểu dân bất nhẫn hàn thả cơ
苟圖飽燠身為輕
Cầu đồ bão úc thân vi khinh
黃池弄甲不足道
Hoàng trì lộng giáp 2 bất túc đạo
稍加存恤當自平
Sảo gia tồn tuất đương tự bình
民死在歲不在我
"Dân tử tại tuế bất tại ngã 3"
勿得欺心蔽聖明
Vật đắc khi tâm tế thánh minh
昨見新鄭城門粘榜示
Tạc kiến Tân Trịnh 4 thành môn niêm bảng thị
按戶給粟蘇殘氓
Án hộ cấp túc tô tàn manh
黃河以北麥又熟
Hoàng Hà dĩ bắc mạch hựu thục
百日而輩妻子皆得生
Bách nhật nhi bối thê tử giai đắc sinh
歸來歸來勿作死
Qui lai qui lai vật tác tử
撫官惠保如父兄
Phủ thần huệ bảo như phụ huynh
Dịch nghĩa: Bài hành về việc binh đao làm nghẽn đường
Đồ đồng đồ sắt leng keng loảng xoảng
Xe ngựa chạy rầm rập, gà chó kêu
Nhà nghèo không đóng cửa, nhà giàu đóng cửa
Dìu già dắt trẻ dời vào trong thành
Ðất này từ tháng sáu đến tháng chín
Hai huyện Hoạt, Tuấn cùng nổi binh
Quan lại mười người, giặc giết tám chín người
Ðầy thành gió tây thổi mùi máu tanh
Lại thêm Sơn Ðông, Trực Lệ từ xa hưởng ứng
Bạch Liên giáo có nhiều phép thuật thần linh
Quan châu nghe tin giặc đến
Khêu đèn suốt đêm lập sổ đinh
Quan võ nghe tin giặc đến
Mài dao liếc kiếm nghe chối tai
Dân trong châu nghe tin giặc đến
Túm ba, tụm năm châu đầu nói xì xào
Khách từ xa đến không hiểu chuyện gì
Chỉ nghe ngoài thành lui tới đều theo tiếng pháo lệnh
Cả miền Hà Nam đều chấn động
Hịch lệnh cấp tốc như sao bay
Bụi cuốn che lấp mặt trời
Bộ binh kị binh chạy dọc ngang
Kị binh giương cung sừng
Tên dài gắn lông chim trắng để đầy bầu
Bộ binh vác giáo ngắn
Mũi thép mới mài, tua đỏ treo lủng lẳng
Lại có binh khí của tráng binh mới gọi
Vót trúc làm giáo, vỏ còn xanh
Xe lớn chở cung dây
Xe nhỏ chở chông nhọn
Suốt ngày qua lại không ngừng
Mấy trăm dặm chỗ nào cũng có binh lính
Ðường sá bế tắc, không người đi
Người đưa tiễn xa than dài, người đưa tiễn gần im lặng
Tới lui đều trong tình trạng khó khăn
Hôm qua nước Hoàng Hà dâng cao
Năm ngày không có ăn, đậu thuyền trên bãi sông
Hôm nay ở Vệ Châu giặc cướp chận đường
Không biết đường trước mặt bao giờ yên
Sao được xe gió một ngày đi vạn dặm
Bay vù một mạch đến thiên kinh
Ta nghe dân trong vùng nhiều năm khổ đại hạn
Chỉ có cầy cấy mà không có thu hoạch
Hồ Nam, Hà Nam đã lâu không mưa
Từ xuân tới thu ruộng bỏ không cày
Trai lớn gái nhỏ vẻ ốm đói
Tấm cám làm cơm, rau lê làm canh
Tận mắt thấy người đói chết trên đường
Hột táo trong bọc lăn bên mình
Nhà bỏ không, có chữ "tra" (xét) trên vách
Mấy trăm nhà đều trôi giạt vì đói
Dân mọn không kham nổi đã lạnh lại đói
Chỉ sao lo được no ấm mà coi nhẹ tấm thân
(Dân đói làm loạn chỉ như trẻ con) chơi đùa binh khí trong vũng ao, không đáng nói
Xét thương một chút là yên ngay
"Dân chết vì năm mất mùa, chẳng phải tại ta" (vua quan)
Ðừng dối lòng che mắt thánh minh.
Hôm trước thấy cửa thành Tân Trịnh yết bảng cáo thị:
"Xét theo từng nhà mà cấp lúa cứu dân sống sót.
Phía bắc sông Hoàng Hà lúa mạch lại chín
Trăm ngày nữa vợ con các người đều được sống
Về đi về đi, chớ có liều chết
Quan phủ gìn giữ dân như cha anh"



Dịch thơ: Bài hành về việc binh đao cản lối

Tiếng đồng sắt leng keng loảng xoảng

Chó sủa dồn tán loạn gà kêu

Xe ngựa rầm rập chạy nhiều

Nhà giầu cửa đóng nhà nghèo thì không

Già trẻ dắt vào trong thành nội

Hoạt, Tuấn hai huyện khởi binh rồi

Mười quan, giết tám, chín người

Khắp thành gió thổi thấy mùi máu tanh

Sơn Đông, Trực Lệ tranh giúp đáp

Phái Bạch Liên nhiều phép thần linh

Quan châu khi nhận được tin

Khêu đèn ngồi lập sổ đinh đêm dài

Quan võ nghe giặc đến nơi

Mài đao liếc kiếm bao người chối tai

Dân nghe giặc sắp đến rồi

Dăm ba túm tụm nơi nơi xì xào

Khách xa đến chẳng hiểu sao

Chỉ thấy pháo lệnh cho vào cho ra

Hà Nam chấn động mọi nhà

Lệnh truyền tới tấp như là sao bay

Bụi mù che cả mặt trời

Bộ binh kỵ mã chạy hoài dọc ngang

Kỵ binh giương bắn cung sừng

Tên dài đầu gắn lông chim đầy bầu

Bộ binh vác như nhau giáo ngắn

Mũi thép mài lủng lẳng tua quanh

Còn quân mới gọi: tráng binh

Vót tre làm giáo còn xanh vỏ ngoài

Xe lớn thì chở cung dây

Xe nhỏ chông nhọn qua đây không ngừng

Mấy trăm dặm khắp vùng binh mã

Đường xá nào thấy có bóng ai

Tiễn xa thì tiếng than dài

Tiễn gần im lặng không ai nói gì

Tới lui trắc trở mọi bề

Hôm qua dòng nước Hoàng Hà dâng cao

Năm ngày không một bữa nào

Đậu thuyền trên bãi mà ngao ngán lòng

Vệ Châu giặc cướp chặn đường

Lại lo chặng tiếp đến chừng nào yên

Ước gì có chiếc xe tiên

Ngày đi vạn dặm bay liền đến kinh

Nghe dân kể mười năm đại hạn

Có cấy cầy mà chẳng có thu

Hồ-Hà lâu đã không mưa

Xuân thu đành bỏ ruộng khô không cày

Bon trai gái vẻ gầy ốm đói

Cám làm cơm lá hái làm canh

Đường quan người đói chết quanh

Hột táo trong bọc bên mình lăn ra

Nhiều nhà vắng chữ « TRA » trên vách

Mấy trăm làng phiêu bạt lang thang

Dân không chịu nổi cơ hàn

Chỉ cầu no bụng coi thường tấm thân

Giá như các bậc đại nhân

Xót thương một chút thì dân yên lành

« Tại trời đâu phải tại mình »

Dối lòng che mắt thánh minh quen rồi

Thành Tân Trịnh có nơi cáo thị :

« Xét từng nhà cấp lúa cho dân

Hoàng Hà mùa đã đến gần

Đợi trăm ngày nữa vợ con sống rồi

Hỡi các ngươi hãy về thôi

Quan phủ gìn giữ như người cha anh ».

                                Đỗ Đình Tuân

                                  (dịch thơ)




Chú thích:
1. ý nói đã kiểm tra
2. Điển lấy ở sách Hán thư, ý nói nhân dân vì đói rét mà nổi loạn, ví như trẻ con chơi đùa binh khí trong ao chuôm.
3. Dân tử tại tuế bất tại ngã: dân chết tại trời làm mất mùa chứ không phải tại ta. Điển lấy trong sách Mạnh Tử. Đó là câu nói của bọn quan lại, vua chúa ngày trước, thấy dân đói thì đổ tội cho trời làm mà không nhận là mình không mang lại hạnh phúc cho dân.
4. Đời Thanh, thành này thuộc phủ Khai Phong, tỉnh Hà Nam.
21/7/2014
Đỗ Đình Tuân
Share on Google Plus

About Unknown

Bài viết này được chia sẻ bởi Unknown.
    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Đăng nhận xét