Những tháng cuối năm 2012 có những thông tin làm chúng ta phải suy nghĩ về hiện tình của đất nước. Bản tương trình về năng lực cạnh tranh toàn cầu (2012-2013) của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) cho thấy Việt Nam tụt 10 hạng so với năm ngoái. Hiện nay, trong số 144 nền kinh tế trên thế giới, Việt Nam xếp ở hạng 75, vị trí thấp nhất kể từ khi tham gia xếp hạng. Cho dù bảng xếp hạng của WEF còn vài vấn đề cần bàn thêm về mặt phương pháp, kết quả trên cũng đáng báo động, nhất là trong mục tiêu công nghiệp hoá đất nước vào năm 2020.
Tri thức là một yếu tố chủ đạo cho sự cạnh tranh toàn cầu trong thế kỉ 21. Những xã hội thành công là những xã hội biết khai thác tri thức để có lợi thế trên thế giới. Bởi vì đại học là nơi mà tri thức được sáng tạo, nên hệ thống đại học đóng vai trò cực kì quan trọng trong các chính sách khoa học. Vị thế và năng suất của hệ thống đại học đã trở thành một mục tiêu chiến lược và cũng là một chỉ tiêu về năng lực cạnh tranh toàn cầu của một quốc gia. Tuy nhiên, những dữ liệu mới công bố gần đây cho thấy Việt Nam đang tụt hạng về năng lực cạnh tranh toàn cầu. Sự tụt hạng xảy ra ở 3 chỉ tiêu chính: trí tuệ, kinh tế tri thức, và đẳng cấp của đại học.
Bảng xếp hạng của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (World Intellectual Property Organization –WIPO) cho thấy Việt Nam đứng hạng 76 trên 141 nước về khả năng sáng tạo và cách tân. Thứ hạng của Malaysia là 65, Thái Lan là 57, và Singapore 3 [1]. Thật ra, thứ hạng này cũng khá nhất quán với số bằng sáng chế được đăng kí ở Mĩ. Báo cáo của UNESCO cho thấy trong thời gian 2000 - 2007, các nhà khoa học Việt Nam chỉ đăng kí được 19 bằng sáng chế, tức mỗi năm trung bình chỉ 2 bằng sáng chế. Có năm (như 2002, 2011) không có bằng sáng chế nào được đăng kí.
Các chỉ số kinh tế tri thức của Việt Nam cũng thấp hơn so với các nước trong vùng. Theo báo cáo của Tổ chức Giáo dục - Khoa học và Văn hóa của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) năm ngoái [2], Việt Nam đứng hạng 106 trên 145 về kinh tế tri thức. So với năm 1995, thứ hạng của Việt Nam tăng 14 bậc. Song so với các nước tương đương trong vùng, kinh tế tri thức của Việt Nam thấp nhất (Indonesia hạng 103, Philippines hạng 89, Thái Lan 63, Malaysia 48 và Singapore hạng 19). Việt Nam thậm chí còn ở thứ hạng thấp hơn cả bán đảo Fiji (hạng 86)!
Cho đến nay, không có một đại học nào nằm trong danh sách các đại học hàng đầu thế giới [3]. Mới đây, theo kết quả phân tích và xếp hạng của nhóm Quacquarelli Symonds (QS), Châu Á có 65 trường nằm trong nhóm Top 400. Trong các nước châu Á, Nhật có 16 trường và Trung Quốc có 9 trường. Riêng khối ASEAN (10 nước), có 11 trường có tên trong danh sách Top 400. Mười một trường này thuộc 5 nước: Thái Lan (2), Malaysia (5), Indonesia (1), Philippines (1), và Singapore (2). Không một đại học nào của Việt Nam lọt vào danh sách “Top 400”. Tương tự, không một đại học nào của Việt Nam được xếp vào các bảng Top 400 hay Top 500 của các nhóm như THE (Times Higher Education) hay ARWU (Academic Ranking World Universities).
Nói tóm lại, trong cả 3 chỉ tiêu về kinh tế tri thức, số bằng sáng chế, và xếp hạng đại học, Việt Nam đang ở một vị thế thấp và bất lợi. Một mẫu số chung có thể giải thích sự tụt hậu về khả năng cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam. Do đó, dịp cuối năm là thời gian lí tưởng để nhìn lại tình hình hoạt động qua phân tích ấn phẩm khoa học công bố quốc tế.
Nghiên cứu khoa học được định nghĩa như là một qui trình sáng tạo tri thức mới hoặc/và sử dụng tri thức hiện hành một cách mới mẻ và sáng tạo để phát triển những khái niệm mới, những phương pháp mới, hay hiểu biết mới. Nghiên cứu khoa học có thể bao gồm cả việc tổng hợp và phân tích những nghiên cứu trước để mở rộng những thành tựu mới. Định nghĩa khoa học trên đây bao trùm cả nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng. Nghiên cứu cơ bản là những theo đuổi rất cụ thể về một đề tài mà có thể không dẫn đến những ứng dụng cụ thể nào trong tương lai gần (có người ví von trong nghiên cứu cơ bản nhà khoa học đặt câu hỏi trên mây). Nghiên cứu ứng dụng là những điều tra khoa học nguyên thuỷ nhằm sáng tạo ra tri thức mới nhưng nhắm đến việc ứng dụng cụ thể.
Trong vài năm gần đây, trong quá trình hội nhập quốc tế, vấn đề hoạt động khoa học và năng suất nghiên cứu khoa học ở nước ta đang được đặt ra khá nhiều lần. Nhưng đánh giá năng lực khoa học của một nước không đơn giản chút nào, vì thành tựu của nghiên cứu khoa học thường không thể cân đo đong đếm như sản phẩm kĩ nghệ. Không giống như hoạt động sản xuất kĩ nghệ với những sản phẩm vật chất cụ thể mà công chúng có thể sử dụng được cho cuộc sống hàng ngày, sản phẩm của nghiên cứu khoa học -- nhất là nghiên cứu khoa học cơ bản -- thường mang tính trừu tượng, rất ít khi nào gần gũi trực tiếp với người tiêu dùng. Trong nhiều trường hợp, thành tựu của nghiên cứu khoa học chỉ hiển nhiên sau vài mươi năm sau khi công trình nghiên cứu hoàn tất. Chẳng hạn như các nhà vật lí học nghiên cứu về khả năng truyền dẫn hình ảnh qua fibre optics trong thập niên 1950, nhưng mãi đến 30 năm sau mới tìm được ứng dụng của thành tựu này qua việc phát triển các máy nội soi trong y khoa. Tương tự, khám phá về vai trò của testosterone (một hormone nội tiết) được phát hiện trong thập niên 1930, nhưng phải chờ đến 40 năm sau mới tìm thấy ứng dụng trong lâm sàng và chăn nuôi.
Mặc dù các phương pháp sử dụng để đánh giá khả năng khoa học vẫn còn trong vòng tranh cãi, nói chung cộng đồng quốc tế nhất trí rằng có thể sử dụng một số chỉ tiêu để xếp hạng khả năng khoa học giữa các nước. Chỉ tiêu quan trọng nhất là số lượng bài báo khoa học và số lần trích dẫn (còn gọi là citation index). Số lượng bài báo khoa học phản ảnh “sản lượng” của một nền khoa học, và mức độ hoạt động khoa học của một nước. Số lần trích dẫn cho từng chuyên ngành cũng có thể phản ảnh chất lượng các công trình nghiên cứu.
Số lượng ấn phẩm khoa học
Năm 2012 (số liệu chưa đầy đủ), các nhà khoa học Việt Nam công bố được khoảng 1200 bài báo khoa học trên các tập san quốc tế có bình duyệt. Năm 2011, con số này là 1324. Nếu tính từ 1970 đến 2011, tổng số ấn phẩm từ Việt Nam là 10745. Con số này chỉ bằng 22% của Thái Lan, 27% của Malaysia, và 11% của Singapore. Thật ra, so với các nước lớn trong vùng, số bài báo khoa học của Việt Nam là thấp nhất (Bảng 1).
Nguồn: Số liệu thu thập từ ISI Web of Science, cập nhật 20/10/2012.
Trong thực tế, số bài báo khoa học của Việt Nam chỉ bắt đầu tăng đáng kể sau năm 2000. Trong khi đó, sự tăng trưởng của các nước Thái Lan và Malaysia bắt đầu từ những năm đầu thập niên 1990. Biểu đồ 1 thể hiện sự tăng trưởng về số ấn phẩm khoa học của trong thời gian 1966 đến 2011. Tính trung bình, mỗi số bài báo khoa học từ Việt Nam tăng trưởng khoảng 13% mỗi năm. Tỉ lệ này cũng rất tương đương với các nước như Thái Lan (12%), Malaysia (11%), Indonesia (12%). Tuy nhiên, tỉ lệ tăng trưởng của Việt Nam cao hơn Philippines (7.5%), nhưng thấp hơn Singapore (15%).
Biểu đồ 1: Số ấn phẩm khoa học từ 1966 đến 2011 của các nước trong khối ASEAN. Nguồn: ISI Web of Science 20/10/2012
Thay đổi lĩnh vực nghiên cứu
Trong 30 năm qua đã có một số biến chuyển đáng chú ý trong xu hướng nghiên cứu khoa học ở nước ta. Trong thập niên 1980, phần lớn những công trình nghiên cứu tập trung vào hai ngành toán học và vật lí, nhưng thập niên 1990 cho đến nay, y sinh học trở thành một lĩnh vực nghiên cứu có nhiều ấn phẩm khoa học nhất. Thật vậy, trong thập niên 1980-89, 1/3 tổng số bài báo khoa học của Việt Nam là thuộc lĩnh vực toán học, và hơn 1/4 là thuộc lĩnh vực vật lí; nhưng đến thập niên 2000-2011 thì số bài báo của hai lĩnh vực này chỉ chiếm ~29% tổng số bài báo khoa học (Bảng 2). Trong khi đó, số bài báo liên quan đến lĩnh vực y sinh học vào thập niên 1980-89 chỉ ~7%, nhưng đến thập niên 1990-99 thì chiếm gần 32% tổng số bài báo khoa học. Số ấn phẩm về hoá học cũng giảm theo thời gian, trong khi đó các lĩnh vực như kĩ thuật, máy tính, khoa học vật liệu và cơ hoọc thì không thay đổi đáng kể trong suốt 30 năm qua.
Nguồn: Số liệu thu thập từ ISI Web of Science, cập nhật 20/10/2012.
Biểu đồ 2 trình bày kết quả phân tích ấn phẩm khoa học của Việt Nam (1966-2011) theo lĩnh vực nghiên cứu. Có thể nói phần lớn (68%) những ấn phẩm khoa học công bố quốc tế của Việt Nam tập trung vào 3 ngành: y sinh học, vật lí, và toán học. Thật vậy, gần 40% những ấn phẩm khoa học Việt Nam liên quan đến lĩnh vực y sinh học, kế đến là vật lí (15%), và toán (14%). Các lĩnh vực quan trọng như hoá học, kĩ thuật và khoa học vật liệu, mỗi ngành chỉ chiếm khoảng 4-5% tổng số ấn phẩm khoa học của Việt Nam.
Biểu đồ 2: Mười lĩnh vực nghiên cứu hàng đầu của Việt Nam
Tri thức là một yếu tố chủ đạo cho sự cạnh tranh toàn cầu trong thế kỉ 21. Những xã hội thành công là những xã hội biết khai thác tri thức để có lợi thế trên thế giới. Bởi vì đại học là nơi mà tri thức được sáng tạo, nên hệ thống đại học đóng vai trò cực kì quan trọng trong các chính sách khoa học. Vị thế và năng suất của hệ thống đại học đã trở thành một mục tiêu chiến lược và cũng là một chỉ tiêu về năng lực cạnh tranh toàn cầu của một quốc gia. Tuy nhiên, những dữ liệu mới công bố gần đây cho thấy Việt Nam đang tụt hạng về năng lực cạnh tranh toàn cầu. Sự tụt hạng xảy ra ở 3 chỉ tiêu chính: trí tuệ, kinh tế tri thức, và đẳng cấp của đại học.
Bảng xếp hạng của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (World Intellectual Property Organization –WIPO) cho thấy Việt Nam đứng hạng 76 trên 141 nước về khả năng sáng tạo và cách tân. Thứ hạng của Malaysia là 65, Thái Lan là 57, và Singapore 3 [1]. Thật ra, thứ hạng này cũng khá nhất quán với số bằng sáng chế được đăng kí ở Mĩ. Báo cáo của UNESCO cho thấy trong thời gian 2000 - 2007, các nhà khoa học Việt Nam chỉ đăng kí được 19 bằng sáng chế, tức mỗi năm trung bình chỉ 2 bằng sáng chế. Có năm (như 2002, 2011) không có bằng sáng chế nào được đăng kí.
Các chỉ số kinh tế tri thức của Việt Nam cũng thấp hơn so với các nước trong vùng. Theo báo cáo của Tổ chức Giáo dục - Khoa học và Văn hóa của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) năm ngoái [2], Việt Nam đứng hạng 106 trên 145 về kinh tế tri thức. So với năm 1995, thứ hạng của Việt Nam tăng 14 bậc. Song so với các nước tương đương trong vùng, kinh tế tri thức của Việt Nam thấp nhất (Indonesia hạng 103, Philippines hạng 89, Thái Lan 63, Malaysia 48 và Singapore hạng 19). Việt Nam thậm chí còn ở thứ hạng thấp hơn cả bán đảo Fiji (hạng 86)!
Cho đến nay, không có một đại học nào nằm trong danh sách các đại học hàng đầu thế giới [3]. Mới đây, theo kết quả phân tích và xếp hạng của nhóm Quacquarelli Symonds (QS), Châu Á có 65 trường nằm trong nhóm Top 400. Trong các nước châu Á, Nhật có 16 trường và Trung Quốc có 9 trường. Riêng khối ASEAN (10 nước), có 11 trường có tên trong danh sách Top 400. Mười một trường này thuộc 5 nước: Thái Lan (2), Malaysia (5), Indonesia (1), Philippines (1), và Singapore (2). Không một đại học nào của Việt Nam lọt vào danh sách “Top 400”. Tương tự, không một đại học nào của Việt Nam được xếp vào các bảng Top 400 hay Top 500 của các nhóm như THE (Times Higher Education) hay ARWU (Academic Ranking World Universities).
Nói tóm lại, trong cả 3 chỉ tiêu về kinh tế tri thức, số bằng sáng chế, và xếp hạng đại học, Việt Nam đang ở một vị thế thấp và bất lợi. Một mẫu số chung có thể giải thích sự tụt hậu về khả năng cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam. Do đó, dịp cuối năm là thời gian lí tưởng để nhìn lại tình hình hoạt động qua phân tích ấn phẩm khoa học công bố quốc tế.
Nghiên cứu khoa học được định nghĩa như là một qui trình sáng tạo tri thức mới hoặc/và sử dụng tri thức hiện hành một cách mới mẻ và sáng tạo để phát triển những khái niệm mới, những phương pháp mới, hay hiểu biết mới. Nghiên cứu khoa học có thể bao gồm cả việc tổng hợp và phân tích những nghiên cứu trước để mở rộng những thành tựu mới. Định nghĩa khoa học trên đây bao trùm cả nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng. Nghiên cứu cơ bản là những theo đuổi rất cụ thể về một đề tài mà có thể không dẫn đến những ứng dụng cụ thể nào trong tương lai gần (có người ví von trong nghiên cứu cơ bản nhà khoa học đặt câu hỏi trên mây). Nghiên cứu ứng dụng là những điều tra khoa học nguyên thuỷ nhằm sáng tạo ra tri thức mới nhưng nhắm đến việc ứng dụng cụ thể.
Trong vài năm gần đây, trong quá trình hội nhập quốc tế, vấn đề hoạt động khoa học và năng suất nghiên cứu khoa học ở nước ta đang được đặt ra khá nhiều lần. Nhưng đánh giá năng lực khoa học của một nước không đơn giản chút nào, vì thành tựu của nghiên cứu khoa học thường không thể cân đo đong đếm như sản phẩm kĩ nghệ. Không giống như hoạt động sản xuất kĩ nghệ với những sản phẩm vật chất cụ thể mà công chúng có thể sử dụng được cho cuộc sống hàng ngày, sản phẩm của nghiên cứu khoa học -- nhất là nghiên cứu khoa học cơ bản -- thường mang tính trừu tượng, rất ít khi nào gần gũi trực tiếp với người tiêu dùng. Trong nhiều trường hợp, thành tựu của nghiên cứu khoa học chỉ hiển nhiên sau vài mươi năm sau khi công trình nghiên cứu hoàn tất. Chẳng hạn như các nhà vật lí học nghiên cứu về khả năng truyền dẫn hình ảnh qua fibre optics trong thập niên 1950, nhưng mãi đến 30 năm sau mới tìm được ứng dụng của thành tựu này qua việc phát triển các máy nội soi trong y khoa. Tương tự, khám phá về vai trò của testosterone (một hormone nội tiết) được phát hiện trong thập niên 1930, nhưng phải chờ đến 40 năm sau mới tìm thấy ứng dụng trong lâm sàng và chăn nuôi.
Mặc dù các phương pháp sử dụng để đánh giá khả năng khoa học vẫn còn trong vòng tranh cãi, nói chung cộng đồng quốc tế nhất trí rằng có thể sử dụng một số chỉ tiêu để xếp hạng khả năng khoa học giữa các nước. Chỉ tiêu quan trọng nhất là số lượng bài báo khoa học và số lần trích dẫn (còn gọi là citation index). Số lượng bài báo khoa học phản ảnh “sản lượng” của một nền khoa học, và mức độ hoạt động khoa học của một nước. Số lần trích dẫn cho từng chuyên ngành cũng có thể phản ảnh chất lượng các công trình nghiên cứu.
Số lượng ấn phẩm khoa học
Năm 2012 (số liệu chưa đầy đủ), các nhà khoa học Việt Nam công bố được khoảng 1200 bài báo khoa học trên các tập san quốc tế có bình duyệt. Năm 2011, con số này là 1324. Nếu tính từ 1970 đến 2011, tổng số ấn phẩm từ Việt Nam là 10745. Con số này chỉ bằng 22% của Thái Lan, 27% của Malaysia, và 11% của Singapore. Thật ra, so với các nước lớn trong vùng, số bài báo khoa học của Việt Nam là thấp nhất (Bảng 1).
Bảng 1. Số bài báo khoa học trên các tập san khoa học quốc tế | |||||
Nước | 1970-79 | 1980-89 | 1990-99 | 2000-11 | 1970-2011 |
Việt Nam | 156 | 448 | 1702 | 8425 | 10745 |
Thái Lan | 1427 | 3651 | 6573 | 37640 | 49317 |
Malaysia | 1288 | 2426 | 5243 | 31353 | 40349 |
Indonesia | 323 | 1087 | 2579 | 7992 | 11988 |
Philippines | 830 | 1984 | 2799 | 6849 | 12503 |
Singapore | 1080 | 3877 | 17272 | 75641 | 97931 |
Trong thực tế, số bài báo khoa học của Việt Nam chỉ bắt đầu tăng đáng kể sau năm 2000. Trong khi đó, sự tăng trưởng của các nước Thái Lan và Malaysia bắt đầu từ những năm đầu thập niên 1990. Biểu đồ 1 thể hiện sự tăng trưởng về số ấn phẩm khoa học của trong thời gian 1966 đến 2011. Tính trung bình, mỗi số bài báo khoa học từ Việt Nam tăng trưởng khoảng 13% mỗi năm. Tỉ lệ này cũng rất tương đương với các nước như Thái Lan (12%), Malaysia (11%), Indonesia (12%). Tuy nhiên, tỉ lệ tăng trưởng của Việt Nam cao hơn Philippines (7.5%), nhưng thấp hơn Singapore (15%).
Biểu đồ 1: Số ấn phẩm khoa học từ 1966 đến 2011 của các nước trong khối ASEAN. Nguồn: ISI Web of Science 20/10/2012
Thay đổi lĩnh vực nghiên cứu
Trong 30 năm qua đã có một số biến chuyển đáng chú ý trong xu hướng nghiên cứu khoa học ở nước ta. Trong thập niên 1980, phần lớn những công trình nghiên cứu tập trung vào hai ngành toán học và vật lí, nhưng thập niên 1990 cho đến nay, y sinh học trở thành một lĩnh vực nghiên cứu có nhiều ấn phẩm khoa học nhất. Thật vậy, trong thập niên 1980-89, 1/3 tổng số bài báo khoa học của Việt Nam là thuộc lĩnh vực toán học, và hơn 1/4 là thuộc lĩnh vực vật lí; nhưng đến thập niên 2000-2011 thì số bài báo của hai lĩnh vực này chỉ chiếm ~29% tổng số bài báo khoa học (Bảng 2). Trong khi đó, số bài báo liên quan đến lĩnh vực y sinh học vào thập niên 1980-89 chỉ ~7%, nhưng đến thập niên 1990-99 thì chiếm gần 32% tổng số bài báo khoa học. Số ấn phẩm về hoá học cũng giảm theo thời gian, trong khi đó các lĩnh vực như kĩ thuật, máy tính, khoa học vật liệu và cơ hoọc thì không thay đổi đáng kể trong suốt 30 năm qua.
Bảng 2. Tỉ trọng (%) một số lĩnh vực khoa học 1980 – 2011 | |||
Lĩnh vực nghiên cứu | 1980 – 1989 | 1990 – 1999 | 2000-11 |
Y sinh học | 6,7 | 31,9 | 27,6 |
Toán học | 33,2 | 24,4 | 13,6 |
Vật lí | 25,6 | 21,6 | 15,2 |
Hoá học | 10,1 | 6,2 | 8,2 |
Kĩ thuật, máy tính, khoa học vật liệu, cơ | 12,6 | 15,5 | 12,5 |
Biểu đồ 2: Mười lĩnh vực nghiên cứu hàng đầu của Việt Nam
Những dữ liệu trên đây cho thấy nghiên cứu khoa học trong năm 2012 (qua ấn phẩm công bố quốc tế) vẫn chưa có một sự đột biến tích cực. Có thể rút ra 2 điểm chính từ phân tích này:
Thứ nhất là năng suất khoa học còn thấp. Tuy con số ấn phẩm có tăng, nhưng tỉ lệ tăng trưởng không cao hơn các nước láng giềng. Hệ quả là tổng số ấn phẩm khoa học của Việt Nam còn thấp hơn số ấn phẩm khoa học của một đại học lớn của Thái Lan (như Chulolongkorn hay Mahidol) và Malaysia (Đại học Malaya). Những con số này cần đặt trong bối cảnh Việt Nam có hơn 9000 giáo sư và khoảng 24000 tiến sĩ. Trong thực tế, chỉ có khoảng 30% giáo sư làm trong các đại học, và khoảng 30% (thậm chí thấp hơn) các tiến sĩ thực sự làm khoa học có công bố quốc tế. Điều này nói lên rằng năng suất khoa học của các nhà khoa học còn rất thấp.
Thứ hai là càng ngày càng có nhiều nghiên cứu y sinh học hơn. Trước năm 1990, gần 60% các công trình nghiên cứu của Việt Nam chỉ tập trung trong hai lĩnh vực toán và vật lí. Nhưng nay chỉ riêng ngành y sinh học chiếm gần 1/3 tổng số bài báo khoa học quốc tế. Số lượng ấn phẩm khoa học ngành toán của Việt đã thấp hơn Thái Lan và Malaysia. Nếu xem chuyển hướng nghiên cứu sang ứng dụng thì một xu hướng tích cực, thì sự phân bố công trình nghiên cứu trong thời gian qua của nước ta là tích cực. Tuy nhiên, khả năng ứng dụng của các nghiên cứu Việt Nam vẫn còn là một dấu hỏi.
Nếu những dữ liệu trên đây nói lên một thông điệp, tôi nghĩ đó là thông điệp hoạt động khoa học Việt Nam cần một cuộc cải cách lớn. Nếu không, chúng ta sẽ tiếp tục tụt hậu và thua kém các nước trong vùng. Do đó, để nâng cao vị thế khoa học Việt Nam trên trường quốc tế, thiết nghĩ Nhà nước ngoài việc nâng cao hiệu suất đầu tư cho khoa học và công nghệ và cải cách hệ thống hoạt động nghiên cứu khoa học, cần phải bắt đầu phát triển các chuẩn mực cho các nhà khoa học, kể cả tiêu chuẩn giáo sư, sao cho phù hợp với các chuẩn mực quốc tế và không quá xa rời thực tế ở nước ta.
Chú thích: bản ngắn hơn đã đăng trên sgtt.vn.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét