Anh Toại vào học khoa Văn, Tổng hợp từ khóa 13, sau đó nhập ngũ. Mãi khóa 19 mới về học lại nhưng hồi tụi K17 chúng mình còn đang mài đũng quần trên ghế giảng đường thì đã nghe rất nhiều về anh Toại cũng như các anh Nguyễn Tri Nguyên, Nguyễn Duy Nhuệ (Nguyễn Duy), Triệu Xuân Điến (Triệu Xuân), Trần Nho Thìn... Các thầy thường lấy sáng tác của các anh làm ví dụ khi giảng dạy sinh viên khóa sau. Phải nói Văn khoa Tổng hợp những năm tháng ấy quá nhiều người tài hoa, cung cấp cho nền văn nghệ nước nhà những con người có tâm có tầm thật sự.
Nhà văn Thái Kế Toại tại trại sáng tác văn học "Vì an ninh tổ quốc", tháng 10.2011. Ảnh: Võ Văn Tạo
Ít người biết anh Thái Kế Toại vốn dòng dõi Mạc tộc (Mạc Đĩnh Chi, Mạc Đăng Dung...). Sau khi nhà Mạc thất thế, người họ Mạc phải mai danh ẩn tích, thay tên đổi họ. Anh đã có thời cầm trịch trang web Mạc tộc (mactoc.com) khá nổi tiếng, mà mình cũng được anh cho đăng vào đấy đôi ba bài viết về triều Mạc. Cũng như mối lương duyên, chẳng những tình anh em đồng môn mà còn bởi làng Trà Phương quê mình vốn là quê bà Thái hoàng thái hậu Vũ Thị Ngọc Toàn, vợ đức Thái tổ Mạc Đăng Dung, ông tổ của anh Toại. Sau này trang web ấy được giao cho tiến sĩ Mạc Văn Trang (bố của cô gái nổi tiếng Mạc Việt Hồng), và mình cũng thỉnh thoảng liên hệ với bác Trang bởi rất thích những gì liên quan đến thời nhà Mạc.
Qua thư của anh Toại, mình lại được biết thêm anh Đỗ Xuân Chính (thương binh) từng học chung với K17 bọn mình vốn là sinh viên văn khóa 12, nhập ngũ cùng đợt với anh Toại. Hồi còn ở trường, mình và các anh Đỗ Xuân Chính, Bùi Trọng Cường chơi với nhau thân lắm, anh Chính có cô em gái rất đẹp bán hàng ở cửa hàng dược trên thị xã Hà Đông. Anh Chính mấy lần làm mối, còn mình cũng không ít lần tháp tùng bác Cường lên tận Hà Đông nhưng rốt cuộc bác Cường vẫn về tay không, xin chết không được bởi cô em anh Chính không cho chết.
Nhà văn Thái Kế Toại (phải) và nhà báo Võ Văn Tạo (Nha Trang, 10.2011)
Thư anh Toại còn viết rằng Thông ơi, em cho anh gửi lời chào các bạn khóa 17 nhé. Mình nghĩ cái tình đồng môn mới sâu nặng làm sao.
Xin giới thiệu 3 bài thơ của anh Thái Kế Toại - Lê Hoài Nguyên:
LÊ HOÀI NGUYÊN
CON ĐƯỜNG RA BIỂN
Năm lên mười tuổi
Mạc Đăng Dung lên thuyền theo cha vượt cửa sông Văn Úc
Lần đầu tiên biết thế nào là sóng biển
Khi ngọn sóng cao như mái đình trùm lên con thuyền
cuốn cậu ra xa
Từ dưới sâu cậu bé vùng vẫy chống lại sóng dữ bám được mạn thuyền trước khi người cha túm cậu kéo lên
Từ cái lần đầu tiên ấy
Cậu không còn sợ biển
Cậu bỏ lại trên bờ nỗi sợ truyền đời
Những cơn sóng kinh hồn giữa trùng khơi
Chuyện thần biển bắt người, bắt cả ai dám cứu người trả nợ
Năm mười lăm tuổi
Cậu đã cứu được người bám cột buồm sắp chết.
Mười sáu tuổi, cậu nhìn thấy những chiếc thuyền buôn vĩ đại của những người da trắng
Trên những chiếc thuyền ấy chàng thanh niên thầm khâm phục họ
Đêm trở về căn nhà mái rạ nền đất nhà mình cậu thao thức mơ bay đến những chân trời xa lạ, những xứ sở giàu có tiền bạc và sức mạnh
Nơi những chàng trai như cậu có thể đi khắp trái đất với những con tàu vĩ đại, những kiện hàng to lớn, với những tráp đầy tiền, vàng bạc.
Cậu nhìn hai bàn tay mình
Hai bàn tay to, đầy chai sạn không khác gì bàn tay của những người thủy thủ da trắng. Cậu cũng kéo nổi mỏ neo, cũng nâng lên vai, vác đi những kiện hàng to.
Với những thứ đồ gốm, xấp tơ lụa trên thuyền cậu cũng đổi được vải vóc, đồ trang sức, đồ kim khí, thuốc men...
Cậu hỏi người cha : Cha ơi, để có những con thuyền to lớn đi ra được đại dương thì phải làm gì?
Cha cậu trả lời : Con phải có sức mạnh. Con phải làm cho đất nước giàu có. Biển cả sẽ giúp con.
Mạc Đăng Dung nhìn hai bàn tay mình. Thật lạ trong đó có cả sóng đại dương đang vỗ dào dạt, cậu đang lái một con thuyền to lớn đi về phía mặt trời lên mỗi sớm.
Hai mươi hai tuổi, trong trận tỷ thí đánh gục hai mươi đối thủ bước lên võ đài đô lực sĩ, trong hai bàn tay chàng đánh cá lại cồn lên những cơn sóng biển.
Những cơn sóng biển không bao giờ buông tha chàng cả khi cầm dù che đầu vua ở đội quân túc vệ.
Hai mươi chín tuổi, chàng có thanh bảo đao sức lực người thường không mang nổi. Trên mình ngựa đánh Đông dẹp Bắc lạ thay thanh bảo đao mỗi khi khua trên đầu binh địch phát ra những đợt sóng ầm ào cuốn tan tất cả các đạo quân cùng thành lũy.
Bốn mươi tư tuổi chàng đánh cá trở thành Hoàng đế.
Người vẫn không bao giờ nguôi nhớ tiếng sóng biển.
Vẫn mơ những con thuyền buôn vĩ đại, những xứ sở giàu đẹp bên kia bờ đại dương.
Mỗi buổi sáng
Hoàng đế - Người đánh cá nhìn lại hai bàn tay mình, tiếng sóng biển lại nhắc lời người cha ngày trước :
Biển cả sẽ giúp con.
Tháng 11 -2012
CAO BẰNG
Ngàn núi cao mây phủ
Huyền tích 400 năm
Bản Phủ vào đêm hội
Nến đèn sáng lung linh
Người đẹp đến giờ vẫn đẹp
Như từ cung cấm bước ra
Tiếng lượn lưng đồi tha thiết
Chuông chùa Đà Quận ngân nga
Nguyên Bình vẫn nắng mênh mang quá
Hồng chín vàng tươi lối dẫn sang
Minh Tâm xóm nhỏ nhà ấm lửa
Dấu vết năm nao bóng Bác còn
Này đây thành cũ
Đây vườn thượng uyển
Này đây giếng ngọc
Này đây hồ sen
Đây vườn đạn đá
Nà Lữ, Phục Hòa
Miếu bà, miếu cô
Bến thuyền khách trú
Xưởng gỗ, lò rèn
Này chợ Háng Séng
Này đình Cô Xàu
Lò gạch hòm sớ
Kia đồi Kho Khẩu
Đây chùa Huyền Du...
Em gái từ xứ Nam
Thẫn thờ nhìn sóng nước Bằng Giang
Dõi người thưở trước chân ngàn dặm
Thao thức đêm trường nhớ cố hương
Chàng trai họ Mạc từ Kinh Bắc
Thầm nghe cụ tổ bà xưa hát
Tiễn tổ ông giữ nghiệp biên thùy
Nàng về nuôi cái cùng con
Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng
Cao Bằng
Cao Bằng
Đèo gối đèo cao mãi
Ngựa mỏi gối chồn chân
Ngủ đứng bên dốc đá
Mơ bạn hàng sáng mai
Cao Bằng
Cao Bằng
Xuôi về Đông Bắc đường ra biển
Căng buồm gió đẩy tới phương Nam
Mang hồn phục thủy cho dòng tộc
Bến lạ mong chờ khách lữ vong
Cao Bằng sáng lại trời non nước
Tụ về linh khí của ngày xưa
Có ngày con cháu chen chân đuốc
Như thưở hồn thiêng đất cố đô
Tháng 10-2012
BẢO ĐAO HỒI CỐ ĐÔ
Người có thời thôi, đất có thời
Âu do định mệnh, cũng do trời
Đã bao quyết liệt, bao giông bão
Im lặng nằm trong khối tiết tháo
Giông bão cuộn trong từng thớ thép
Thưở oai linh ào ào gầm thét
Thái Nguyên, Yên Quảng lại Sơn Tây
Giữ cố triều Lê khỏi tan nát
Năm trăm năm, phải năm trăm năm
Dương Kinh, Ngọc Tỉnh, về Dương Kinh
Đi qua những cõi cháy lửa máu
Thân còn nguyên vẹn nhờ con cháu
Ngậm hờn trước kẻ vong ân nghĩa
Nuốt tiếng thị phi lẫn nhục nhã
Trước thiên triều vạn quân hung dữ
Cứu dân lành khỏi cõi điêu linh
Bây giờ Người về ngự Thế miếu
Tường Quang điện cũ nhật nguyệt chiếu
Bảo đao hầu cận ở bên Người
Nhìn cháu con mỉm cười rơi lệ
Thanh thản trùm lên sắc vải điều
Mênh mang Đa Độ đẹp mây chiều
Muôn họ cùng chung xây đất nước
Xã tắc non sông hết oán cừu.
Tháng 11-2012
0 nhận xét:
Đăng nhận xét